DẠNG BÀI PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT
DÀN Ý CHUNG
Mở bài:
Giới thiệu nhân vật? Trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
Ấn tượng sâu sắc nhất về nhân vật là gì?
Thân bài:
Hoàn cảnh sáng tác:
Tóm tắt tác phẩm :
Lưu ý: Tóm tắt ngắn gọn, tập trung vào những chi tiết đắt giá, tạo ra tình huống truyện để nhân vật chính bộc lộ đặc điểm.
Lần lượt phân tích các phương diện của nhân vật:
Phân tích một nhân vật chính là làm sáng tỏ một tính cách, một số phận độc đáo. Vì nhân vật văn học thành công bao giờ cũng mang một tính cách, một số phận riêng. Những tính cách, số phận ấy bộc lộ qua các hình thức sau.
Lai lịch, hoàn cảnh:
Là phương diện đầu tiên góp phần chi phối đặc điểm tính cách cùng cuộc đời nhân vật. Lai lịch có quan hệ khá trực tiếp và quan trọng với đường đời của một (một nhân vật). Lai lịch gồm thành phần xuất thân, hoàn cảnh, gia đình.
Ngoại hình
Trong văn học, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp của nhà văn nhằm hé mở tính cách nhân vật. Phần lớn, đặc điểm tỉnh cách, chiều sâu nội tâm (cái bên trong) của nhân vật được thống nhất với ngoại hình (vẻ bê ngoài).
Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét khắc hoạ chấm phá có thê giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của nhân vật nào đó.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm văn học được cá thể hoá cao độ, nghĩa là mang đậm dấu an của một cá nhân. Qua lời ăn tiếng nói của con người, chúng ta có thể nhận ra trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của người ấy.
Nội tâm
Là thế giới bên trong của nhân vật gồm: cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ… Thế giới nội tâm rất sâu kín, phức tạp. Ngòi bút tài năng của nhà văn có khả năng có khả năng miêu tả được những ngõ ngách sâu kín của nội tâm từ những điều thuộc phạm vi ý thức đến những điều trong cõi tiềm thức. Một nghệ sĩ tài năng bao giờ cũng là một bậc thây trong việc năm băt và diên tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tê đời sống nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ nhả văn và cảm nhận, phân tích được một cách thuyết phục. Đây cũng là nơi chứng tỏ năng lực của người phân tích tác phẩm.
Cử chỉ hành động
Bản chất con người ta bộc lộ chân sát, đầy đủ nhất qua cử chỉ, hành động. Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kỹ các cử chỉ, hành động.
Những nhận xét của các nhân vật khác hoặc người kể chuyện về nhân vật đang được phân tích.
Nghệ thuật:
Khác với phân tích cả tác phẩm, đề bài dạng này chỉ yêu cầu phân tích nhân vật. Cho nên, phần nghệ thuật nên chăm chút cho những thủ pháp giúp nhân vật trở nên điển hình. Ví dụ như: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện (giúp nhân vật bộc lộ tính cách), Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết cấu, nghệ thuật xây dựng các tuyến nhân vật khác…w.
Mở rộng, liên hệ (nếu có):
Trong phần này, có thế liên hệ nét tuơng đồng hay so sánh chỉ ra sự khác biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác để bài viết thêm sâu, rộng. Những đánh giá, nhận định khác về nhân vật cũng là những chi tiết đắt giá để bài phân tích của bạn có thêm điểm sáng!
III. Kết bài:
Tổng kết, khẳng định lại vấn đề:
+ Đặc điểm điển hình của nhân vật
+ Đặc điểm/phong cách/ bút pháp nổi trội của tác giả trong việc xây dựng thành công nhân vật.
– Nhân vật cần phân tích:
– Truyện:……………………………… Tác giả:…………………. |
|
Phương diện | Biểu hiện trong truyện |
Lai lịch, xuât thân, hoàn cảnh | |
Ngoại hình | |
Lời nói | |
Hành động | |
Suy nghĩ | |
Việc làm | |
Mối quan hệ với nhân vật khác. | |
Nhận xét đánh giá về nhân vật. |
Lập dàn ý
Mở bài
– Giới thiệu nhân vật cần phân tích.
– Nêu ý kiến của người viết về dặc điểm cùa nhân vật.
Thân bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh của nhân vật:
Phân tích những đặc điểm, phẩm chất, tính cách của nhân vật:
Phân tích đặc điểm thứ nhất của nhân vật.
– Ý kiến về đặc điểm thứ nhất của nhân vật.
– Lí lẽ (là lí giải của người viết cho đặc điểm của nhân vật cần phân tích) cần thuyết phục, xác đáng.
– Bằng chứng (là những chi tiết, sự việc, lời nói, ngôn ngữ, trích dẫn…từ truyện) cần xác thực, phong phú.
Phân tích đặc điểm thứ hai của nhân vật.
– Ý kiến về đặc điểm thứ hai của nhân vật.
– Lí lẽ (là lí giải của người viết cho đặc điểm của nhân vật cần phân tích) cần thuyết phục, xác đáng.
– Bằng chứng (là những chi tiết, sự việc, lời nói, ngôn ngữ, trích dẫn… từ truyện) cần xác thực, phong phú.
——————————————————————–
Đề 1: Viết bài văn phân tích đặc điểm nhân vật bé Hồng trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” (trích ’’Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng).
Dàn ý chi tiết
♦ Mở bài:
*Giới thiệu nhân vật cần bàn luận và thể hiện ý kiến của người viết về đặc điểm của nhân vật.
– Nhân vật bé Hồng – nhân vật trung tâm của đoạn trích “Trong lòng mẹ” (chương thứ IV của tác phẩm “Những ngày thơ ấu ”) hiện lên với cảnh ngộ đáng thương và tình yêu thương mẹ đáng trân trọng.
– Tình cảnh đáng thương của chú bé Hồng và tình cảm yêu thương mẹ sâu sắc, mãnh liệt của em đã để lại cho người đọc nhiều rung cảm.
♦ Thân bài:
*Giới thiệu về tác giả, tảc phẩm để giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật cần phân tích.
– Nhà văn Nguyên. Hồng sinh năm 1918 mất năm 1982. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng. Nguyên Hồng từng có một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí “Những ngày thơ ấu” được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn.
– Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng là tập hồi kí viết về những tháng ngày tuổi thơ cay đắng và khắc nghiệt của chính tác giả – một tuổi thơ mồ côi, chịu bao nhiêu tủi cực, thiếu thốn. Và có lẽ, trong tác phẩm, làm cho người đọc cảm động nhất chính là đoạn trích “Trong lòng mẹ” – trích Chương IV. Đoạn trích đã cho ta hiểu được tình cảnh đáng thương cùng nỗi đau tinh thần bấy lâu của bé Hồng đồng thời ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
*Nêu ý kiến của người viết về đặc điểm của nhân vật:
Đặc điểm 1: Hồng là đứa trẻ nhạy cảm, em luôn dành cho mẹ tình yêu thương sâu sắc và niềm tin yêu tuyệt đối; đồng thời em căm phẫn những hủ tục lạc hậu đã đày đọa người mẹ kính yêu của em.
– Hoàn cảnh bẻ Hồng: Bé Hồng hiện lên trong cảnh ngộ côi cút cùng khổ: bố mất trong vòng nghiện ngập, người mẹ có trái tim nhân hậu khát khao yêu thương đã phải bỏ nhà đi tha hương cầu thực và chịu sự dè bỉu, khinh bỉ của người đời. Hồng ở với bà cô cay nghiệt, ghẻ lạnh, luôn muốn gieo rắc vào đầu óc non nớt của cháu những hình ảnh xấu về mẹ để cậu bé khinh miệt và ruồng rẫy mẹ mình.
– Một lần, nghe bà cô hỏi có muốn vào Thanh Hóa chơi với “mợ mày không?”, bé lập tức tưởng tượng ra vẻ mặt rầu rầu và hiền từ của mẹ. Bé nhớ mẹ, muốn gặp mẹ nên đã toan trả lời là cỏ, nhưng tầm hồn nhạy cảm đã khiến bé Hồng nhận ra ngay ý đồ thâm hiểm trong giọng nói và trên nét mặt bà cô, cho nên bé cúi đầu không đáp. Cử chỉ ấy là một cách phản kháng ý đồ gieo rắc vào đầu óc cậu bé những hoài nghi để cậu khinh miệt mẹ. Trong em, sự độc ác của bà cô đã cho em một bài học về cách tính toán của người lớn, đã biến em thành một người khôn ngoan, “phòng thủ kẻ xấu” đã trở thành bản năng tự vệ, và vũ khí duy nhất của em, để bảo vệ cho danh dự của người mẹ thân yêu. Và tiếng cười của em khi trả lời bà cô: “Cháu không muốn vào” như gây cho người đọc cảm giác dường như Hồng không chú ý, không buồn bã khi phải xa mẹ. Mặc dù trả lời như vậy nhưng chắc rằng lúc bấy giờ, trong lòng Hồng, hình ảnh và những tình cảm yêu thương mặn nồng đổi với mẹ đang trào dâng nghẹn ngào.
– Bé Hồng đã bênh vực mẹ bằng những ý nghĩ quyết liệt: đời nào tình yêu thương và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến. Họ hàng bên nội có thế ruồng rẫy mẹ, kết tội mẹ, thóa mạ mẹ… nhưng với bé Hồng, mẹ vẫn là người mẹ hiền từ, yêu quý mà cậu ra sức bảo vệ.
– Trước sự mỉa mai của bà cô, bé không chịu nổi đã òa lên khóc. Bé khóc vì căm tức những thành kiến bất công của bà cô, của người đời đối với mẹ. Bé khóc vì thương xót người mẹ yếu đuối do sợ miệng lưỡi thế gian mà phải xa lìa con, trốn tránh tìm nơi sinh nở.
– Tình thương mẹ của bé Hồng trỗi dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết và đã biến thành khát vọng phản kháng quyết liệt: Giá như cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá, hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kì nát vụn mới thôi. Chi tiết này chứng tỏ tình cảm của Hồng đối với mẹ thật bao la, vô bờ bến.
– Khi nghe bà cô hỏi chuyện, là một đứa bé nhạy cảm Hồng nhận ra ngay ý nghĩ cay độc sau giọng nói và nét mặt “rất kịch” của bà cô. Cậu thầm nghĩ về mẹ và không đáp lại lời bà cô, trong lòng cậu vẫn có một niềm tin mãnh liệt chắc chắn thế nào mẹ cũng về, cậu trả lời bà cô mà lòng thắt lại, khóe mắt đã bắt đầu cay cay. Hồng đau đớn, xót thương mẹ khi thấy cô nói xấu, xúc xiểm người mẹ mà em hằng tôn quý.
– Hồng không trách mẹ, dù mẹ chưa đoạn tang cha mà đã chửa đẻ với người khác. Chính bởi em cũng hiểu cuộc hôn nhân của cha mẹ hoàn toàn bị ép buộc không có hạnh phúc. Cho nên việc mẹ xây dựng hạnh phúc với người khác, chẳng qua vì mẹ cố tìm lại thời thanh xuân mà mình đã đánh mất, đã chôn vùi dưới nấm mồ thời gian mà thôi.
– Nhà văn miêu tả rất thành công điệu cười của Hồng: “cười dài trong tiếng khóc”. Cái tiếng cười ấy chứa đựng biết bao hàm ý. Trước hết đó là một tiếng cười chua xót, tủi phận khi không có một gia đình như ai. Sau nữa là tiếng cười căm giận, mỉa mai.
=> Hồng là một đứa bé nhạy cảm, thông minh. Trong tận sâu thẳm trái tim mình, Hồng vẫn có một niềm tin mãnh liệt về mẹ. Càng yêu thương mẹ và xót xa trước những bất hạnh của mẹ bao nhiêu, Hồng càng căm phẫn những hủ tục đã đầy đọa cuộc đời mẹ. Những trạng thái cảm xúc của Hồng đã được nhà văn Nguyền Hồng thể hiện chân thực, xúc động bang những dòng hồi kí đượm chất trữ tình. Những câu văn thấm đượm giá trị nhân văn này đã lay động trái tim bạn đọc, khiến chúng ta cảm thấy khóe mắt cay cay, tâm hồn rung động cùng diễn biến tâm trạng của nhân vật…
Đặc điểm 2: Niềm sung sướng, hạnh phúc của bé Hồng khi được ở trong lòng mẹ.
– Bằng những trực giác hết sức tinh tế nhạy bén của mình, thêm vào đó là tình cảm nồng nàn Hồng dành cho mẹ, em đã phát hiện rất chính xác người ngồi trên xe kéo là mẹ mình. Nhưng nếu em nhầm lẫn thì cảm giác thất vọng, sụp đổ được Hồng tưởng tượng như “người bộ hành đi giữa sa mạc mênh mông thì bắt gặp ảo ảnh của bóng râm và dòng suối”.
– Hình ảnh em hồng hộc chạy theo xe tay, đến nơi thì khóc lên nức nở chứng tỏ em rất nhạy cảm. Em tủi thân lắm nên tiếng khóc nghẹn ngào mới bật ra khi gặp mẹ. Đồng thời đó còn là tiếng khóc sung sướng, vỡ òa.
– Niềm sung sướng choáng ngợp tâm trí nên em có thể quên ngay những lời đồn đại xấu xa về mẹ. Từ những cảm giác đê mê sung sướng của chú bé khi nằm “trong lòng mẹ”, nhà văn nêu lên nhận xét khái quát và đầy xúc động về sự êm dịu vô cùng của người mẹ trên đời: “Phải bé lại và để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Lúc nỗi nhớ, niềm thương, nỗi uất ức lâu ngày bị dồn nén, bỗng đột ngột được giải tỏa, bé Hồng òa lên khóc rồi cứ thế nức nờ…”.
=> Nhờ tình yêu thương và niềm tin ấy, đến khi gặp mẹ, bé Hồng đã nhận được niềm sung sướng và hạnh phúc lớn lao. Người mẹ của bé Hồng trở về đúng thời điểm quan trọng nhất, đã xua tan mọi đau đớn, dằn vặt trong tâm hồn chú bé. Hồng lúc ấy chỉ là một chú bé con, trở về trong lòng người mẹ yêu dấu, rất thơ ngây và trong trắng. Em thực sự phải được hưởng niềm hạnh phúc to lớn lao ấy bởi con người, tâm hồn em đích thực là một vì sao lạc lõng, nhỏ bé nhưng sáng chói giữa bầu trời bao la.
♦ Kết bài:
*Khẳng định lại ý kiến của người viết về đặc điểm của nhân vật, nêu cảm nghĩ của người viết về nhân vật.
– Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình qua việc xây dựng tình huống, ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật, nhà văn Nguyên Hồng đã kể lại một cách chân thực và cảm động những cay đắng, tủi cực cùng tình yêu cháy bỏng của bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh.
– Hình ảnh nhân vật chú bé Hồng khiến người đọc xúc động với tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý.