Chuyên đề gồm có các phần sau:
Phần Một: Đọc hiểu truyện
Kĩ năng đọc hiểu.
Ví dụ minh họa
III. Đề xuất các luyện các đề
Phần Hai: Viết
Viết đoạn văn
Hướng dẫn kĩ năng viết.
Đoạn văn mẫu.
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá về tác phẩm truyện.
Hướng dẫn kĩ năng viết.
Bài văn mẫu.
III. Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá về một nhân vật trong truyện.
Hướng dẫn kĩ năng viết.
Bài văn mẫu.
Phần Ba: Lí luận nâng cao.
Các ý kiến về truyện và văn học nghệ thuật.
Chuyên đề chuyên sâu về truyện
Phần Bốn: Luyện đề
Thần thoại.
Truyện hiện đại
III. Câu chuyện quà tặng cuộc sống.
PHẦN MỘT: ĐỌC HIỂU TRUYỆN
CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TRUYỆN
Khái niệm và đặc điểm truyện ngắn:
Khái niệm:
– Truyện ngắn là thể loại tự sự, tác giả dùng lời kể, lời miêu tả để trình bày chuỗi sự kiện này dẫn đến sự kiện khác để đi đến một kết thúc có ý nghĩa nào đó.
– Truyện ngắn là lát cách rất mỏng cắt ngang qua cuộc đời của nhân vật bằng một khoảnh khắc, một thời gian ngắn => Qua lát cắt đó, giúp người đọc hiểu về tính cách, số phận, phẩm chất của nhân vật.
VD1: Truyện ngắn “Bầy chim chìa vôi” của Nguyễn Quang Thiều: Sự việc 1: nước sông dâng cao khiến hai anh em Mon và Mên không ngủ được => Sự việc 2: hai anh em quyết định lấy đò của ông Hảo đi giải cứu bầy chim chìa vôi => Sự việc 3: hai anh em vui mừng, hạnh phúc trong niềm xúc động trào dâng khi thấy bầy chim chìa vôi bay lên => Kết thúc: hai anh em khóc trong cảnh bầy chim bay lên lúc bình minh.
=> Truyện là một lát cắt được bắt đầu từ đêm mưa cho đến sáng hôm sau trong không gian trời mưa, sông nước mênh mông của đầu mùa lũ => Qua lát cắt đó, người đọc hiểu được vẻ đẹp tâm hồn ngây thơ, tình thương lòng trắc ẩn của hai anh em Mon và Mên.
VD2: Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân: Sự việc 1: Huấn Cao đứng lên chống lại triều đình nên bị bắt, bị kết án tử hình => Sự việc 2: Huấn Cao bị đưa đến trại giam tỉnh Sơn, vì thế quản ngục ra sức biệt nhỡn Huấn Cao để mong ông hồi tâm chuyển ý cho mình chữ => Sự việc 3: Quản ngục nhận được phiến trát, sáng sớm hôm sau Huấn Cao bị đưa ra pháp trường, điều này khiến ông rầu rĩ, khi có ông Huấn trong tay mình, dưới quyền mình mà không xin được chữ thì ông day dứt suốt đời => đã kể cho thầy thơ lại nghe về nỗi lòng của mình => Sự việc 4: Thơ lại kể cho Huấn Cao nghe nỗi lòng của của chủ mình, Huấn Cao xúc động và quyết định cho chữ, dẫn đến cảnh cho chữ là cảnh xưa nay chưa từng có. => Sự việc 5: Huấn Cao cho chữ, khuyên quản ngục từ bỏ nghề nghiệp, nơi ở rồi mới nghĩ đến việc chơi chữ => Quản ngục xúc động nghẹn ngào nói như có ròng nước mắt rỉ qua kẽ miệng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
=> Kết thúc: Huấn Cao cho chữ, khuyên quản ngục từ bỏ nghề nghiệp, nơi ở rồi mới nghĩ đến việc chơi chữ => Quản ngục xúc động nghẹn ngào nói như có ròng nước mắt rỉ qua kẽ miệng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” => ý nghĩa: Huấn Cao (biểu tượng cho cái đẹp) khuyên quản ngục, quản ngục đã tâm phục khẩu phục, xúc động nghẹn ngào nghe theo lời khuyên của Huấn Cao => Nghĩa là Huấn Cao đã cảm hóa được quản ngục => Cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, cứu rỗi thế giới.
Đặc điểm:
– Người kể chuyện:
+ Ngôi kể thứ nhất: xưng tôi hoặc chúng tôi, là người trực xuất hiện trong câu chuyện, tham gia chứng kiến câu chuyện. Ngôi kể thứ nhất giúp cho câu chuyện trở nên chân thực, khách quan, sinh động; người kể chuyện có thể đan xen những suy nghĩ, nhận xét bình luận về những sự việc được chứng kiến; người kể chủ động điều tiết được nhịp kể. Tuy nhiên, ở ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện chứng kiến được sự việc nào thì kể được sự việc đó nên điểm nhìn trần thuật sẽ bị hạn chế => điểm nhìn hạn tri (biết có giới hạn).
VD1: Trong truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao, người kể chuyện là ông giáo, người đã tham gia vào nhiều sự việc quan trọng trong truyện.
VD2: Trong trích đoạn “Đi lấy mật” trích “Đất rừng Phương Nam” của Đoàn Giỏi, người kể chuyện là cậu bé An, nhân vật chính của truyện.
+ Ngôi kể thứ ba: Người kể chuyện giấu mặt, không tham gia trực tiếp vào câu chuyện, đứng ngoài quan sát nhưng biết được mọi điều về nhân vật, diễn biến câu chuyện. Với ngôi kể thứ ba, người kể chuyện có thể đi sâu miêu tả diễn biến của mọi nhân vật; người kể tha hồ chủ động sáng tạo không giới hạn. Tuy nhiên, hạn chế của ngôi kể này thiếu khách quan, thiếu sinh động so với ngôi kể thứ nhất.
VD1: Trong truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” của Thạch Lam, người kể chuyện giấu mặt; hay truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân cũng vậy.
– Nhân vật: Chính, trung tâm, phụ:
+ Lai lịch, hoàn cảnh, nguồn gốc, xuất thân.
+ Diện mạo, ngoại hình
+ Lời nói, hành động, cử chỉ
+ Mối quan hệ với các nhân vật khác.
– Cốt truyện: Chuỗi các sự kiện, sự việc, chi tiết được gắn kết với nhau chặt chẽ qua một tình huống truyện nào đó.
VD1: Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, cốt truyện xoay quanh các sự việc xin chữ (của quản ngục) và cho chữ ( của Huấn Cao) => Toàn bộ các sự việc, chi tiết đều gắn kết chặt chẽ với nhau để kể, miêu tả quá trình chuyển biến thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với quản ngục dẫn đến việc cho chữ.
VD2: Trong truyện “Bầy chim chìa vôi” của Nguyễn Quang Thiều, cốt truyện xoay quanh những suy nghĩ và hành động của hai anh em Mon, Mên về việc giải cứu bầy chim chìa vôi khỏi dòng nước lũ.
VD3: Truyện “Trái tim hổ” trích “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp, cốt truyện xoay quanh việc săn hổ để lấy trái tim chữa bệnh cho Pùa => Các sự việc đều được kết nối xoay quanh cốt truyện đó như: thanh niên trai tráng trong bản đi săn hổ => mất, bỏ cuộc; sau đó Khó đi săn => tiêu diệt được hổ.
VD4: Trong truyện “Người ở bến sông Châu” của Sương Nguyệt Minh, cốt truyện được xây dựng xoay quanh cuộc đời của Mây ở các thời điểm khác nhau trong cuộc đời. Đó là Mây khi đi lính về thì người yêu đi lấy vợ; Mây đỡ đẻ cho Thanh, vợ của San; thím Ba chết, Mây nhận nuôi thằng Cún; Mây trong mối quan hệ với chú Quang. => tất cả các sự việc trên được kết nối chặt chẽ cùng với nhân vật chính, nhân vật trung tâm là Mây => Khắc họa số phận, vẻ đẹp nhân phẩm của Mây.
+ Lưu ý: Truyện ngắn trữ tình hầu như không có cốt truyện, hoặc cốt truyện rất đơn giản => truyện không có truyện. Ví dụ như các truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam (Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa), truyện của Thanh Tịnh (Tôi đi học).
– Tình huống truyện: Là cái cớ để xảy ra câu chuyện; là xương sườn để kết nối các sự kiện, sự việc, chi tiết với nhau. Nhờ có tình huống câu chuyện được nảy sinh và phát triển. Trong một truyện có thể có một tình huống hoặc có nhiều tình huống khác nhau. Tình huống truyện bao giờ cũng chứa đựng dụng ý nghệ thuật đặc sắc thể hiện nội dung tư tưởn chủ đề của truyện, tài năng cá tính sáng tạo của nhà văn. Theo tiến sĩ Chu Văn Sơn, phân loại tình huống truyện làm ba loại: Tình huống hành động, tình huống nhận thức và tình huống tâm lí.
VD1: Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, tình huống truyện chính là cuộc gặp gỡ của Huấn Cao với quản ngục ở chốn ngục tù tăm tối => tác phẩm chỉ có 1 tình huống (xoay quanh cuộc gặp gỡ kì lạ, dẫn đến việc xin chữ và cho chữ).
VD2: Truyện ngắn “Vợ chống A Phủ” của Tô Hoài, có 4 tình huống chính: Tình huống 1: Do món nợ truyện kiếp Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ; tình huống 2: A Phủ đánh con quan bị bắt phạt và bị biến thành nô lệ chung thân truyền kiếp; tình huống 3: A Phủ vô tình để hổ vồ một con bò => trói đứng chờ chết; tình huống 4: Mị và A Phủ gặp cán bộ A Châu kết nghĩa anh em => Đây đều là các cái cớ để câu chuyện phát triển và chuyển sang một hướng rẽ mới => Khắc phục số phận và sức sống của người lao động miền núi dưới chế độ thực dân phong kiến chúa đất.
VD2: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân được xây dựng quanh tình huống ông Hai nhân được tin làng Chợ Dầu theo Tây => Sau đó toàn bộ câu chuyện được xoay quanh miêu tả tâm trạng của ông Hai trước tình huống ấy => truyện thuộc tình huống tâm lí, tâm trạng.
VD3: Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long xoay quanh cuộc gặp gỡ tình cờ, bất ngờ giữa anh thanh niên với ông họa sĩ và cô kĩ sư => qua cuộc gặp gỡ đó, ông họa sĩ đã nhận thức rõ ràng hơn về anh thanh niên, mảnh đất Sa Pa và những con người sống và làm việc ở Sa Pa; ông cũng nhận thức rõ hơn về bản thân. Cuộc gặp gỡ cũng giúp cô kĩ sư nhận thức đầy đủ hơn về quyết định chia tay mối tình nhạt nhẽo, yên tâm hơn về quyết định rời xa Thủ đô lên Lai Châu công tác => Truyện thuộc tình huống nhận thức.
VD4: Trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, nhân vật lại đa số được miêu tả qua hành động: Tnu đập đá vào đầu do học chữ thua Mai, đi nuôi giấu cán bộ, đi đưa thư => nuốt thư vào trong bụng -> chỉ tay vào bụng “cộng sản ở đây này”, Tnu vượt ngục, nhảy vào bảo vệ giải cứu vợ con, hét lên một tiếng :giết”, bóp chết tên đồn trưởng đồn chỉ huy => Truyện thuộc tình huống hành động.
– Kết thúc: Bao giờ cũng để lại một thông điệp, một ý nghĩa nào đó. Phần kết thúc là cô đọng, sâu lắng và mang sức nặng nghệ thuật, tài năng bản lĩnh của người nghệ sĩ. Chính vì thế, kết thúc truyện bao giờ cũng chứa đựng thông điệp sâu xa, tư tưởng chủ đề mà nhà văn gửi gắm. Kết thúc truyện được chia làm hai loại: kết thúc đóng và kết thúc mở.
+ Kết thúc đóng: Câu chuyện được giải quyết triệt để những mâu thuẫn, xung đột, kết thúc sáng tỏ không khiến cho người đọc phải băn khoăn thắc mắc.
VD: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài: Mị và A Phủ nên vợ nên chồng.
+ Kết thúc mở: Là kết thúc bằng một hình ảnh, một chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng, khơi gợi ở người đọc nhiều liên tưởng suy nghĩ sâu xa nào đó. Kết thúc mở thường tạo ra khoảng trống mênh mông để người đọc suy nghĩ, đồng sáng tạo nên tạo được những dư âm sâu xa vang vọng trong lòng mỗi người đọc.
VD1: Truyện ngắn “Chí Phèo” kết thúc bằng hình ảnh thị Nở nhìn xuống bụng, nhìn ra cái lò gạch bỏ hoang xa xa giữa cánh đồng vắng người qua lại => Kết thúc này khiến người đọc dự đoán có thể sẽ có một Chí Phèo con ra đời “nối nghiệp” bố.
VD2: Truyện ngắn “Vợ nhặt” kết thúc bằng hình ảnh Tràng tiếc rẻ vẩn vơ, trong đầu hiện lên hình ảnh đoàn người đi trên đê Sộp đằng trước có lá cờ đỏ sao vàng to lắm => gợi ra có thể gặp đoàn người Việt Minh Tràng sẽ đi theo họ để thoát khỏi cái đói, cái chết, để bảo vệ hạnh phúc mong manh => Kết thúc mở thể hiện cách nhìn đời rất lạc quan của nhà văn.
+ Lưu ý: Khi phân tích kết thúc để tìm ra ý nghĩa, thông điệp sâu xa của tác phẩm người đọc cần chú ý những điều sau:
* Thứ nhất, cần chú ý xem kết thúc truyện nhân vật đã nói gì với ai? Hành động như thế nào? Hoặc kết thúc bằng hình ảnh nào?
* Thứ hai, cần xem những lời nói, hành động, hình ảnh ấy có ý nghĩa như thế nào?
Thứ ba, xem xét mối quan hệ, biểu tượng của người nói, người hành động với người nghe.
VD1: Kết thúc truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, Huấn Cao biểu tượng cho cái đẹp, Huấn Cao khuyên quản ngục, quản ngục xúc động xin bái lĩnh => Cái đẹp đã cảm hóa được con người, cứu rỗi thế giới.
VD2: Truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” của Thạch Lam kết thúc bằng hình ảnh mẹ ôm hai con vào lòng và nói “con của tôi quý hóa quá dám lấy áo của tôi cho người ta mượn”. Hai chữ “quý hóa” được người mẹ dùng vừa mang tính chất khen, tự hào về nghĩa cử cao đẹp của các con nhưng hai chữ “quý hóa” cũng thể hiện sự nghiêm khắc nhắc nhở mà cũng vô cùng bao dung của một người mẹ nghiêm khắc những cũng yêu thương con vô bờ bến => Thông điệp kết thúc: Tình thương rất quan trọng cần làm, tuy nhiên không nên tùy tiện sử dụng đồ đạc của người khác khi chưa hỏi ý kiến.
– Thông điệp: Là những tư tưởng có ý nghĩa xã hội mà nhà văn gửi gắm tới độc giả. Cần căn cứ vào nội dung câu chuyện, ý nghĩa biểu tượng của các nhân vật chính, và phần kết thúc truyện để rút ra những thông điệp ý nghĩa sâu xa.
VD: Truyện ngắn “Chí Phèo”, tác giả gửi gắm thông điệp: Chừng nào còn cái xấu, cái ác chừng đó còn hiện tượng Chí Phèo, nghĩa là hiện tượng tha hóa, lưu manh hóa. Từ đó, nhà văn đang lên tiếng kêu cứu thống thiết trong việc bảo vệ lương tri, nhân phẩm của con người trước sự tàn phá của cái ác, cái xấu xa.
CÁCH ĐỌC HIỂU TRUYỆN
Các bước đọc hiểu truyện:
Dù đọc hiểu bất cứ tác phẩm nào cần cũng thực hiện theo cách đọc hiểu theo ba lớp câu hỏi:
Lớp 1: Câu hỏi hiểu và biết: Các câu hỏi nhận biết về nhân vật, tình huống, ngôi kể, điểm nhìn trần thuật, chi tiết tiêu biểu.
Lớp 2: Câu hỏi phân tích, lí giải: Phân tích tình huống truyện, phân tích tác dụng của tình huống, phân tích ý nghĩa tác dụng của ngôi kể, phân tích diễn biến cốt truyện, phân tích lí giải vì sao nhân vật nói như vậy? Hành động như vậy? Phân tích kết thúc truyện, ý nghĩa của kết thúc đó?
Lớp 3: Liên hệ, vận dụng: Liên hệ với tác phẩm khác, liên hệ với cuộc sống, liên hệ với chính bản thân mình đã trải qua tình huống đó hoặc đã chứng kiến tình huống đó; vận dụng vào cuộc sống và rút ra bài học, thông điệp => Mở rộng nâng cao vấn đề tác giả đặt ra trong tác phẩm.
Để đọc hiểu và trả lời được theo 3 lớp câu hỏi trên, HS có thể thực hiện theo các bước sau:
– Bước 1: Đọc kĩ, tóm tắt truyện theo các sự kiện, sự việc tiêu biểu.
+ Nắm chắc được khái niệm về chi tiết, sự việc tiêu biểu.
+ Gạch chân dưới các chi tiết, sự việc tiêu biểu.
+ Tóm tắt lại theo nhân vật chính: để tóm tắt sinh động cần kết hợp lời văn của mình với một số câu văn đặc sắc trong văn bản.
– Bước 2: Xác định ngôi kể, điểm nhìn trần thuật, cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật.
+ Xác định ngôi kể: Đọc kĩ, xem cách xưng hô, xem người kể chuyện có xuất hiện trong câu chuyện hay không => đi đến kết luận. Cần lí giải việc sử dụng ngôi kể này khiến cho câu chuyện hay, hấp dẫn, ý nghĩa ở đâu?
+ Cốt truyện: Là xương sống, xâu chuỗi toàn bộ các sự việc tiêu biểu, các biến cố xảy ra trong câu chuyện. Nhờ có cốt truyện, người đọc nắm được nội dung, diễn biến của mạch truyện, hiểu hơn về cuộc đời, số phận của nhân vật.
=> khi đánh giá cốt truyện: ta nên xem xét các sự kiện, biến cố để xem cốt truyện đó sắp xếp có hợp lí không? Cốt truyện đó đơn giản hay phức tạp; được xây dựng theo đơn tuyến nhân vật hay đa tuyến hay song tuyến? Cốt truyện đó được sắp xếp theo trình tự không gian và thời gian như thế nào? Điểm đặc biệt trong việc sắp xếp các chi tiết tiêu biểu đặc biệt là các biến cố có hợp lí không? Có dụng ý gì trong việc thể hiện tính cách của nhân vật. Thông qua cốt truyện đó, nhà văn phản ánh hiện thực gì, gửi gắm tâm tư tình cảm gì?
+ Điểm nhìn trần thuật: Nghĩa là cảnh vật, con người, tâm tư được chuyển điểm nhìn, sự quan sát của ai (có thể là người kể chuyện, có thể nhân vật trong câu chuyện); sự chuyển điểm nhìn trần thuật làm cho câu chuyện sinh động, hấp dẫn; sự vật được nhìn ở nhiều chiều nhiều phía (nếu có nhiều nhân vật quan sát, đánh giá) hoặc điểm nhìn mang tính chủ quan, cảm tính của của nhân vật. Mỗi điểm nhìn bao giờ cũng kèm theo nhận thức, thái độ, tình cảm của người nhìn đối với cảnh vật, sự việc được miêu tả trong truyện.
=> Đánh giá điểm nhìn trần thuật, người đọc sẽ thấy được các nhìn, cách đánh giá, phản ánh hiện thực khách quan của người kể chuyện; đồng thời điểm nhìn trần thuật ta cũng hiểu hơn được nhân vật. Điểm nhìn trần thuật sẽ cho biết khả năng kể chuyện và sự sáng tạo của người nghệ sĩ.
+ Tình huống truyện: Cần xem cái cớ để xảy ra câu chuyện là gì? Toàn bộ câu chuyện có phát triển, xoay quanh các sự việc đó hay không => Nếu có thì đó được coi là tình huống truyện.
=> Đánh giá tình huống truyện: Xem có éo le không? Kịch tính không? Độc đáo không? Tình huống truyện ở đây là cuộc gặp gỡ giữa ai với ai? Họ có đặc điểm gì về nghề nghiệp, địa vị xã hội hay tính cách. Hai người đó có mối quan hệ với nhau như thế nào? Tương đồng hay tương phản; đồng thuận hay đối địch nhau? Hoàn cảnh họ gặp gỡ nhau ở đây là gì?
+ Kết luận: Tình huống xảy ra câu chuyện thuộc loại tình huống nào trong ba tình huống sau:
+ Tính huống hành động: Khi xảy ra sự việc đó nhân vật có hành động không? Có hành động liên tục, hành động này có thúc đẩy hành động khác không?
+ Tình huống tâm lí: Sau tình huống đó, tác giả có đi sâu miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật hay không?
+ Tình huống nhận thức: Sau tình huống xảy ra câu chuyện, nhân vật có nhận thức như thế nào về thiên nhiên, về hoàn cảnh, về mọi người, về chính mình, về lẽ đời…?