2.1.1. Khái niệm: |
Thần thoại là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người.
2.1.2. Bản chất của thần thoại:
a. Bản chất: |
- Thần thoại là một hình thức văn hóa tinh thần ra đời trong các xã hội nguyên thủy, trên cơ sở những tiền đề nhận thức luận sau:
+ Quan niệm vạn vật hữu linh, van vật tương giao, bái vật giáo, quan niệm tô – tem.
+ Người nguyên thủy có khuynh hướng diễn đạt cái trừu tượng bằng cái cảm tính, cụ thể.
+ Người nguyên thủy có quan niệm và thực hành ma thuật.
- Những đặc điểm tư duy trên tạo thành lối tư duy thần thoại. Tư duy thần thoại được cụ thể hóa thành những quan niệm và truyện kể thần thoại.
- Người xưa tin vào các sự kiện được kể lại trong thần thoại và thường gắn liền việc diễn xướng thần thoại với các hình thức nghi lễ (các hình thức thực hành tín ngưỡng).
b. Các nhóm chính của thần thoại Việt |
- Thần thoại về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên: Thần trụ trời, Ông Trời, Nữ thần Mặt trăng, Mặt trời, Thần Mưa…
- Thần thoại về nguồn gốc các loài, bao gồm cả động vật và thực vật: Cuộc tu bổ các giống vật, Thần Lúa,
- Thần thoại về nguồn gốc con người và nguồn gốc các dân tộc ở Việt Nam: Ông Trời, Mười hai bà mụ, Nữ Oa – Tứ Tượng, Lạc Long Quân – Âu Cơ
- Thần thoại về các anh hùng thời khuyết sử, các anh hùng văn hóa, tổ sư các nghề: Sơn Tinh-Thuỷ Tinh, Nữ thần nghề mộc.
2.1.3. Quá trình hình thành và diễn biến của thần thoại Việt |
- Thần thoại Việt hình thành trước hết:
+ Do nhu cầu nhận thức và lý giải các hiện tượng tự nhiên (Thần Trụ Trời, Thần Sét, Thần Biển …).
+ Do nhu cầu nhận thức và lý giải xã hội (Họ Hồng Bàng, Sơn Tinh Thủy Tinh).
- Thần thoại Việt xuất hiện cùng với nghề nông (Nữ Thần Lúa) thời đại đồ đá giữa (văn hóa Hòa Bình) hoặc đầu thời đại đồ đá mới (văn hóa Bắc Sơn).
- Thần thoại Việt phát triển rực rỡ vào thời kỳ chuyển sang thời đại đồ đồng (từ xã hội thị tộc mẫu hệ, bộ tộc riêng lẻ tiến tới thành lập quốc gia Văn Lang).
- Về mặt lý luận, thần thoại phải được hệ thống hóa trong sử thi dân gian, nhưng ngày nay hình thức sử thi này không còn.
- Thần thoại Việt bị truyền thuyết hóa: Một bộ phận thần thoại Việt có sự xâm nhập của các yếu tố lịch sử trở thành truyền thuyết. Nổi bật là chuỗi truyền thuyết về thời các vua Hùng (vốn là những thần thoại).
- Thần thoại còn biến tướng trong Phật thoại, Tiên thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn và cả truyện cười. Nhóm thần thoại này rất khó nhận. Chúng là những truyện thuộc các thể loại trên nhưng chứa đựng các motif thần thoại (Cóc kiện trời, Chử Ðồng Tử …) hoặc mang dấu ấn của xã hội nguyên thủy (Trầu cau, Ðá vọng phu, Sao Hôm sao Mai …).
- Cho dù tác phẩm thần thoại thuộc nhóm nào, cho dù sự tích về các vị thần có hoang đường đến đâu thì thần thoại vẫn chứa đựng những hiểu biết, những kinh nghiêm của người cổ đại.
- Những hiểu biết, những kinh nghiệm này thể hiện qua những câu trả lời về những hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Những câu trả lời này có thể là sai lầm so với tư duy ngày nay, nhưng những vấn đề được người cổ đại đặt ra đôi khi vẫn còn nguyên ý nghĩa đối với chúng ta. Chẳng hạn, câu hỏi về nguồn gốc trái đất và nhân loại là câu hỏi lớn của triết học, tôn giáo và khoa học.
2.2.1. Nhóm thần thoại suy nguyên |
- Thần thoại giải thích các hiệntượng trong tự nhiên và nguồn gốc loài người, các tộc người. Nhóm thần thoại này cho thấy được trình độ hiểu biết, sức tưởng tượng, cách cảm nghĩ, những ước mơ, khát vọng của người Việt thời cổ (Thần Trụ Trời, Mười hai bà mụ…)
- Người Việt thời cổ quan niệm vũ trụ có ba cõi: Trời, Ðất, Nước với hệ thống các vị thần. Các vị thần ở cõi trời gắn với các hiện tượng tự nhiên như thần gió, thần mưa, thần mây, thiên lôi…Ba vị thần trên cõi trời được người Việt nói đến nhiều là Ông Trời, Nữ thần Mặt trời, Nữ thần Mặt trăng. Các vị thần này tương ứng với các hiện tượng tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cư dân nông nghiệp. Ở cỡi Ðất và cõi Nước mỗi nơi đều có một vị thần đứng đầu và các thần bộ hạ.
2.2.2. Thần thoại Việt phản ánh cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên |
- Ðấu tranh chinh phục hạn hán, lũ lụt, gắn với ước mơ về cuộc sống hạnh phúc hơn. Qua đó, thần thoại cũng thể hiện sự bất lực của con người nguyên thủy trước những sự vật hiện tượng chung quanh họ (Cóc kiện trời, Sơn Tinh-Thuỷ Tinh, Thần Lúa, Chú Cuội cung trăng).Với kiểu tư duy thời cổ, qua thần thoại, con người đã chinh phục tự nhiên bằng tưởng tượng.Thực chất thì người thời cổ của tất cả các dân tộc đều không hiểu được các hiện tượng tự nhiên chung quanh họ. Ðây là hiện tượng Tantal trong thần thoại phương Tây (Tantal bị thần vương Jupiter đạp xuống vực Tartare, khát cháy họng mà nước ngang miệng không uống được, trái chín trong tầm tay nhưng không hái được)
- ĐẶC TRƯNG THI PHÁP THẦN THOẠI
- Kết cấu và cốt truyện
- Kết cấu của thần thoại có phần đơn giản hơn: một thần – một nhân vật – một hành động. Kết cấu này chủ yếu là những thần thoại kể về nguồn gốc của vũ trụ, thiên nhiên như: Thần trụ trời, thần mưa, thần gió,…
- Song song đó, vẫn có trường hợp một cốt truyện nhiều chủ đề. Cốt truyện là cốt truyện đơn, song đã thêm những tình tiết, biến cố, sự kiện,…ở kết cấu này phần lớn là chủ để về Nguồn gốc loàingười, chủ đề Hồng thủy, Quả bầu,…hiện tượng phức hợp chủ đề này phản ánh sự đa dạng, nhiều tầng chồng chất lên nhau trong quá trình lưu truyền. Chính điều này đã tạo nên tính đa nghĩa ở một số thần thoại như: Sơn tinh Thủy tinh, Thánh gióng,…
- Một dạng kết cấu khác của thần thoại là, một cốt truyện mang hình thức liên kết của nhiều cốt truyện đơn, làm nên một hệ thần thoại gồm những áng sử thi, thần thoại lớn như: Họ Hồng Bàng, Đẻ đất đẻ nước, Đam san,…
- ĐẶC TRƯNG THI PHÁP THẦN THOẠI
- Tóm lại, do ra đời từ thời khởi thủy của xã hội loài người, giai đoạn mà ý thức con người chưa phát triển nên cốt truyện, kết cấu của thần thoại có phần đơn giản, phiến diện một chiều. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó ta cũng thấy được sự cố gắng của tổ tiên trong việc lí giải các hiện tượng, nguồn gốc của thế giới.
- Nhân vật
- Nhân vật thường xuất hiện đột ngột trong cõi hỗn mang, hình dạng khổng lồ, thực hiện công việc của người sáng tạo ra thế giới
- Nhân vật của thần thoại là kết quả của sự tưởng tượng mộng mơ của con người thời cổ đại với hình dạng khổng lồ, có sức mạnh to lớn, có tính cách đơn giản một chiều như: thần Mưa, thần Sấm, thần Gió, thần Biển, thần Nước, thần Lửa,… mỗi thần chỉ thực hiện một chức năng, một hành động.
- Mỗi thần đem tới một chiến công, một sự đóng góp cho xã hội loài người.
- Các nhân vật cặp đôi như hai thần Đực – Cái, Lạc Long Quân – Âu Cơ (Việt), ông Thu Tha – bà Thu Thiên (Mường),… đã tạo nên nòi giống, dân tộc.
- Các nhân vật dũng sĩ như: ThánhGióng, Sơn Tinh Thủy Tinh… đã có công chống lại thiên tai, giặc dữ bảo vệ cương vực địa bàn sinh tụ sống…
- Hiện thực và hư cấu trong thần thoại
- Thần thoại là bức tranh toàn cảnh của cả một thời đại huy hoàng của quá khứ xa xăm của loài người. Nghệ thuật chủ yếu: phóng đại, kỳ vĩ vì điều này phù hợp với khung cảnh kỳ bí, hoang sơ của thiên nhiên và xã hội thời cổ đại.
- Nghệ thuật phóng đại đã làm cho thần thoại thêm hấp (nhân vật mang tầm cỡ lớn lao với sức mạnh siêu nhiên) từ đó nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Có thể nói phóng đại là nghệ thuật chủ yếu của thần thoại.
- Để diễn tả sự siêu việt của các nhân vật, thần thoại đã xây dựng hình tượng các vị thần, vị nào cũng có một hình thù to lớn dị thường: Thần Trụ Trờicó bước chân bước từ đỉnh núi này sang đỉnh núi nọ. Thần Biển mỗi lần vùng vẫy là có sóng to gió lớn, nước dâng ngập tràn khắp nơi.
- Bên cạnh tưởng tượng, hư cấu thần thoại vẫn có yếu tố hiện thưc. Hiện thực trong truyện thần thoại là hiện thực của các hiện tượng và hoạt động của tự nhiên. Các hiện tượng tự nhiên là chất liệu hư cấu, tưởng tượng trong thần thoại. Chẳng hạn các hiện tượng tự nhiên như: mưa, gió, sấm sét,… là những hiện tượng có sẵn trong tự nhiên, con người thời cổ dựa vào các hiện tượng thiên nhiên sẵn có đó để tưởng tượng và hư cấu trong thần thoại.
- Không gian và thời gian
2.3.4.1. Không gian
– Không gian thần thoại là không gian vũ trụ, khó xác định cụ thể kích cỡ, nơi chốn, vị trí.
– Trong thần thoại có ba không gian chủ yếu: không gian trên trời, không gian mặt đất, không gian dưới nước, chia thành ba cõi: cõi trời, cõi đất và cõi nước. Tuy nhiên ba cõi không gian đó cũng không phải là cố định, ngăn cách thành ba thế giới riêng biệt mà nó luôn biến chuyển, hòa nhập với nhau. Các thần dù được phân chia cai quản các cõi cụ thể nhưng khi cần thì thần trên trời xuống hạ giới làm nhiệm vụ như: thần Thiên Lôi, thần Mưa…Hoặc thần ở dưới cõi nước vẫn lên cõi đất để lấy tài sản, khoáng sản như thần nước.
– Không gian chiều dọc trong thần thoại thể hiện sự xâm nhập của các vị thần trên trời xuống mặt đất và từ mặt đất lên trời như: thần mưa, thần sét, thần thổ công. Điều này góp phần giải thích sự phân cách giữa trời và đất trong thần thoại một số dân tộc. Chẳng hạn như thần trụ trời trong thần thoại người Việt.
2.3.4.2. Thời gian
– Thời gian trong thần thoại là thời gian không xác định, thời gian vĩnh hằng. Các truyện không chỉ ra vào thời gian nào, chỉ biết thuở xưa, thuở mới khai thiên lập địa. Nhưng thuở khai thiên lập địa là vào khi nào rồi kết thúc ra sao, thần thoại không nói rõ bởi lẽ thế giới thần là thế giới của vĩnh hằng. Thần không có tuổi, không biết thần sinh ra khi nào. Thần không bao giờ chết.
Đặc trưng của thể loại thần thoại trong tác phẩm “Thần Trụ trời” là:
– Thần Trụ trời: đây là một truyện thần thoại được lưu truyền khá sớm trong dân gian Việt Nam, giải thích sự hình thành của trời đất tự nhiên: biển, hồ, sông, núi, …
– Tóm tắt quá trình tạo lập nên trời và đất của nhân vật thần Trụ trời:
+ Thần Trụ trời tự mình đào đất, đập đá, đắp thành một cái vừa cao, vừa to để chống trời.
+ Cột được đắp cao lên bao nhiêu thì trời được nâng lên dần chừng ấy → vòm trời được đẩy lên cao.
+ Khi trời cao và khô, thần phá cột, lấy đất đá ném tung đi khắp nơi → tạo ra hòn núi, hòn đảo, gò, đống, những dải đồi cao à mặt đất ngày nay thường không bằng phẳng.
+ Chỗ thần đào đất, đào đá đắp cột → biển rộng.
– Không gian: trời và đất → không gian vũ trụ, không thể hiện một địa điểm cụ thể.
– Thời gian: “thuở ấy” → thời gian mang tính chất cổ xưa, không rõ ràng.
– Kết cấu: đơn giản một thần – một nhân vật – một hành động → kếu cấu phiến diện một chiều.
– Cốt truyện: ngắn gọn, đơn giản, xoay quanh việc thần Trụ trời trong quá trình tạo lập nên trời và đất và vạn vật khác.
– Nhân vật:
+ Ngoại hình: vóc dáng khổng lồ, chân dài, có thể bước từ vùng này qua vùng khác.
+ Hành động: Ngẩng đầu đội trời lên, đào đất, đập đá, đắp thành một cái cột vừa cao, vừa to để chống trời.
→ Vị thần Trụ trời có sức vóc mạnh mẽ, kì lạ mà những người bình thường không thực hiện được.
– Nghê thuật sử dụng trong truyện: nghệ thuật phóng đại một vị thần khống ló xuất hiện. Chân thần dài không thể tả xiết. Thân bước một bước về vị thán là có thể qua từ vùng này đến vùng nọ, hay từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác. → hình tượng Thần trụ trời mang tầm vóc lớn lao, vĩ đại, sức mạnh siêu nhiên, tầm vóc siêu việt góp phần tạo tính hấp dẫn cuốn hút.
– Tính hiện thực trong truyện: Hiện thực trong truyện Thần trụ trời là hình ảnh sông hồ ao núi biển và địa danh. Mỗi hòn đá văng đi, biến thành một hòn núi hay một hòn đảo; đất tung toé ra mọi nơi thành gò, thành đồng, thành những dải đồi cao. Vì thế cho nên mặt đất ngày nay không bằng phẳng, mà có chỗ lồi, chỗ lõm. Chỗ thần đào đất, đào đá mà đấp cột ngày nay thành biển rộng.
Cột trụ trời bây giờ không còn nữa. Sau này người ta thường nói rằng vết tích cột đó ở núi Yên Phụ vùng Hải Hưng’. Người ta cũng gọi đó là cột chống trời (kinh thiên trụ). → Các hiện tượng đó là chất liệu hư cấu, tưởng tượng trong truyện Thần trụ trời
– Tính ngưỡng nguyên thủy về vũ trụ của người Việt cổ trong truyện Thần trụ trời:
+ Từ đó, trời đất mới phản đòi. Đất phẳng như cái mâm vuông, tròi trùm lên như cái bát úp, chỗ trời đất giáp nhau gọi là chân trời. → Quan niệm trời tròn đất vuông
+ Vị thân Trụ Trời đó sau này cũng gọi là Trời hay Ngọc Hoàng bao trùm tất cả, trông coi mọi việc trên trời, dưới đất. Sau khi thần Trụ Trời chia ra trời đất thì có một số thần khác nói tiếp công việc còn dở dang, để xây dựng nên thế gian. Các vị thần đó rất nhiều, như thần Sao, thần Sông, thần Biến,.. → Hệ thông các vị thần thánh thứ bậc trong tín ngưỡng tâm linh của người Việt cổ và cả về sau.
– Thần thoại là cảm hứng có văn học dân gian: Vì vậy dân gian có câu hát còn truyền đến ngày nay: Ông Đếm cát/ Ông Tát bể (biến)/ Ông Ké sao/ Ông Đào sông/ Ông Trồng cây/ Ông Xãy rủ (núi)/ Ông Trụ Trời.
– Nhận xét về đặc điểm của nhân vật này: thần Trụ trời là người có năng lực phi thường, mạnh mẽ và đã có công tạo ra trời, đất. Truyện Thần Trụ trời giải thích về sự hình thành trời đất, vũ trụ – và tất nhiên là bằng sự tưởng tượng sai lầm, cái thế giới hỗn mang hiện ra rồi thay đổi dưới sự tác động của Thần Trụ trời, cũng có sông, có núi, có biển cả mênh mông, có ruộng đồng bát ngát…mà qua đó ta thấy rất rõ rằng người xưa đã sống, đã quan sát, tìm hiểu, để rồi lý giải theo cách riêng của mình với một khao khát hiểu biết mạnh mẽ, khoẻ khoắn. Từ đó cho chúng ta thấy cách giải thích quá trình tạo lập thế giới của tác giả dân gian: Đây là cách giải thích về thế giới của những người xưa cổ bằng trực quan và tưởng tượng, chưa có đầy đủ căn cứ, chưa được xác minh về độ chính xác và còn mang yếu tố hư cấu. Ngày nay, cách giải thích ấy không còn phù hợp. Vì xã hội bây giờ đã hiện đại và khoa học phát triển, có đủ nguồn thông tin, cách minh chứng khoa học nên khi giải thích bất kì một hiện tượng nào cũng luôn yêu cầu, đòi hỏi độ chính xác cao, có căn cứ rõ ràng, xác thực. Như vậy, thông tin ấy mới có thể thuyết phục được mọi người.