📝 Tổng hợp đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Ngữ văn từ lớp 6 → 12
Bộ sưu tập đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Ngữ văn cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12. Mỗi đề đều kèm đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết giúp học sinh ôn luyện hiệu quả trước kỳ thi.
🧠 Cập nhật liên tục – giúp học sinh ôn tập vững vàng trước kỳ thi giữa học kì.
NỘI DUNG ÔN TẬP GIỮA HỌC KÌ I
MÔN: NGỮ VĂN 9
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP GIỮA HỌC KÌ I MÔN NGỮ VĂN LỚP 9
Kiến thức và kĩ năng
Phần I: Đọc hiểu
1.Văn bản:
* Nội dung:
– Văn bản truyện: Truyện hiện đại, truyện truyền kì.
– Văn bản thơ: Thơ hiện đại, thơ song thất lục bát.
* Yêu cầu :
– Đối với văn bản truyện :
+ Hs tóm tắt được văn bản truyện.
+Nắm vững kiến thức về đặc trưng thể loại (phương thức biểu đạt, chủ đề, nhan đề, ngôi kể, nhân vật, tình huống truyện…)
+Nắm được nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa các chi tiết, sự việc.
+ Có kĩ năng trả lời các câu hỏi đọc hiểu về văn bản truyện.
+ Có kĩ năng phân tích nhân vật, tình tiết, sự việc, rút ra nhận xét, đánh giá, bình luận của bản thân từ các nhân vật, sự việc trong văn bản.
– Đối với văn bản thơ:
+ Nắm vững kiến thức về đặc trưng thể loại (phương thức biểu đạt, chủ đề, ý nghĩa nhan đề, mạch cảm xúc…)
+Nắm vững nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa các chi tiết, hình ảnh thơ đặc sắc
+ Có kĩ năng trả lời các câu hỏi đọc hiểu về văn bản thơ.
+ Có kĩ năng phân tích, cảm thụ hình ảnh thơ đặc sắc; biết phân tích tác dụng của các biện pháp nghệ thuật rút ra nhận xét, đánh giá, bình luận.
Tiếng Việt
* Nội dung:
– Ôn tập kiến thức về từ vựng và ngữ pháp trong chương trình ngữ văn lớp 6,7,8
– Ôn tập kiến thức về: điển tích, điển cố; biện pháp tu từ chơi chữ, điệp vần điệp thanh.
* Yêu cầu: Học sinh nhận diện đặc điểm, tác dụng và vận dụng các kiến thức tiếng Việt trên trong viết văn.
Phần II: Viết
* Nội dung:
– Đoạn văn nghị luận văn học
– Bài văn nghị luận xã hội.
* Yêu cầu:
– Hs vận dụng kĩ năng phân tích, tổng hợp và kiến thức về các phương tiện liên kết trong viết văn nghị luận văn học và văn nghị luận xã hội.
– Có kĩ năng viết đoạn văn nghị luận văn học về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
– Có kĩ năng viết đoạn văn nghị luận văn học về một đoạn thơ, khổ thơ, bài thơ.
Một số dạng bài tập
Dạng bài tập đọc hiểu
Bài 1. Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: ỏ nở hoa hồng vũ
Con yêu ơi!
Nếu mẹ là cánh đồng
Con là cỏ nở hoa trong lòng mẹ
Dẫu chẳng đủ rộng dài như sông bể
Vẫn chứa chan ngày nắng dưới mặt trời
Khi đêm về hứng muôn ánh sao rơi
Sương lấp lánh đọng trong ngần mỗi sớm
Cỏ yêu nhé cứ hồn nhiên mà lớn
Phủ xanh non lên đất mẹ hiền hòa
Rồi một ngày cỏ nở thắm muôn hoa
Cánh đồng mẹ rộn ràng cùng gió mát
Cỏ thơm thảo tỏa hương đồng bát ngát
Và rì rào cỏ hát khúc mùa xuân
Những mạch ngầm trong đất mãi trào dâng
Dòng nước mát ngọt ngào nuôi dưỡng cỏ
Niềm hạnh phúc giản đơn và bé nhỏ
Được bên con mãi mãi đến vô cùng
(Mùa cỏ nở hoa- Hồng Vũ, Văn học và tuổi trẻ số tháng 3 năm 2019, trang 44)
Xác định thể thơ của văn bản trên. Ghi lại các từ láy trong các câu thơ in đậm.
Chỉ rõ và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ sau.
Cỏ thơm thảo toả hương đồng bát ngát
Và rì rào cỏ hát khúc mùa xuân
Ghi lại một vài hình ảnh thể hiện tình cảm của mẹ dành cho con trong bài thơ. Nhận xét về hiệu quả biểu đạt của các hình ảnh đó.
Mẹ luôn yêu thương con, sát cánh cùng con trên mọi chặng đường đời. Nhưng có những người con lại không thấu hiểu được tấm lòng của mẹ. Là một người con, theo em, chúng ta cần làm gì để tình cảm mẹ con luôn gắn bó?
Bài 2. Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
THẦY HIỆU TRƯỞNG
Thầy hiệu trưởng của chúng tôi là một người ôn hòa, dễ mến. Dáng người thầy cao, đầu hói, đeo kính, râu pha trộn giữa những sợi đen và những sợi bạc dài xuống ngực. Thầy thường xuyên mặc bộ quần áo màu xám, đóng cúc đến tận cằm, trông người ôn hòa, dễ mến rất trang trọng và nghiêm nghị.
Những bạn vi phạm kỷ luật mà bị gọi vào phòng hiệu trưởng thì rất run sợ nhưng thầy hiệu trưởng không trách mắng họ, chỉ nắm tay họ và nói lần sau không được làm như thế nữa. Thầy còn an ủi, động viên họ sau này phải làm một đứa trẻ ngoan. Lời nói của thầy rất nhẹ nhàng, thái độ rất ôn hòa, mỗi khi bước ra khỏi phòng thầy, mắt các bạn ấy đỏ hoe. Họ cảm thấy xấu hổ vì những chuyện mà mình đã làm.
Sáng nào cũng vậy, thầy hiệu trưởng là người đầu tiên đến trường. Thầy chờ học sinh đến trường, chờ phụ huynh tìm gặp mình nói chuyện. Khi tan học, thầy là người cuối cùng rời khỏi trường. Bởi vì thầy phải đi kiểm tra ở quanh trường xem có học sinh nào đi trên đường không chú ý an toàn hay không, xem có học sinh nghịch ngợm nàomải chơi không về nhà không. Những bạn đùa nghịch trên đường, chỉ cần nhìn thấy dáng người cao lớn của thầy hiệu trưởng là lập tức giải tán ngay. Lúc ấy thầy hiệu trưởng đứng xa dõi theo họ, ánh mắt buồn nhưng chất chứa tình yêu thương.
Nghe mẹ nói, từ sau khi con trai của thầy hy sinh trên chiến trường, hiếm khi nhìn thấy thầy cười. Bây giờ trên bàn làm việc của thầy vẫn còn tấm ảnh con trai. Khi con trai hy sinh, thầy hiệu trưởng đã muốn từ chức. Ngay cả đơn xin nghỉ cũng viết xong rồi. Chỉ có điều thầy không nỡ rời xa học trò nên không thể hạ quyết tâm được.
Một lần, thầy hiệu trưởng muốn rời khỏi trường. Đúng lúc ấy bố tôi đến trường, bố liền khuyên thầy: “Thầy hiệu trưởng, nếu thầy đi thì thật đáng tiếc. Các em học sinh không thể rời xa thầy được”. Lúc ấy một ông bố dẫn một em bé vào phòng và nói muốn chuyển trường. Thầy hiệu trưởng tỏ ra rất ngạc nhiên, kéo em bé ấy đến bên mình, nâng cằm em ấy, nhìn em ấy một lúc rồi mới nói đồng ý. Sau đó, thầy ghi tên họ để hai bố con họ về còn mình thì chìm vào suy tư. Lúc ấy, bố tôi nói: “Thầy mà từ chức thì trường học sẽ thế nào?”. Thầy hiệu trưởng nghe vậy, liền lấy tờ đơn trong ngăn kéo, xé làm đôi rồi nói: “Sau này tôi không nhắc đến chuyện từ chức nữa”.
(Trích Những tấm lòng cao cả, Ét-môn-đô A-mi-xi*)
*Chú thích: Ét-môn-đơ A-mi-xi (1846 – 1908) là nhà văn Ý. Ông là nhà hoạt động xã hội, nhà văn lỗi lạc, giàu lòng nhân ái. Ông được biết đến với những tác phẩm dành cho thiếu nhi chứa nhiều ý nghĩa, trong đó nổi tiếng trên toàn thế giới là “Những tấm lòng cao cả”.
Xác định và nêu tác dụng của ngôi kể được sử dụng trong văn bản trên.
Nhân vật thầy hiệu trưởng trong văn bản được khắc họa qua những phương diện nào? Qua đó, em có nhận xét gì về nhân vật thầy hiệu trưởng?
Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong các câu văn sau: Khi tan học, thầy là người cuối cùng rời khỏi trường. Bởi vì thầy phải đi kiểm tra ở quanh trường xem có học sinh nào đi trên đường không chú ý an toàn hay không, xem có học sinh nghịch ngợm nào mải chơi không về nhà không.
d.Văn bản trên gửi đến em thông điệp gì?
Bài 3. ĐỌC HIỂU (4,0 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
CỦA ĐỂ DÀNH
(Nguyễn Thị Thu Huệ[1])
Tóm tắt: Bà Vy có ba con. Họ đều học hành đến nơi đến chốn, người con trai cả cả làm giám đốc công ty may. Anh thứ hai làm kế toán trong một nhà máy. Còn cô út là diễn viên của một đoàn kịch. Hàng ngày. Bà Vy làm lụng từ năm giờ sáng đến mười giờ đêm, vừa kiếm tiền vừa chăm chút cho cả ba người con. Một ngày nọ, bà bị xe máy đâm, bị ngã và phải nhập viện.
[…] Tỉnh dậy bà thấy như ở một cõi xa xôi nào đó trở về. Mê mê. Tỉnh tỉnh. Đến hôm sau bà mới nhớ ra tại sao mình lại nằm ì ra thế này. Bác sĩ bảo: “Bà bị rạn xương chậu, tụ máu một bên đầu, có khả năng bị chảy máu trong”.Anh con cả đưa ra đề nghị:
– Ăn cơm bụi, vừa tiện, vừa rẻ mà vẫn đủ chất.
Anh con thứ:
– Cơm bụi muôn năm.
Cô út thì phụng phịu:
– Em chịu thôi. Ai lại diễn viên như em, lên sân khấu toàn vai Vương phi Công chúa, rồi Trợ lý giám đốc, bây giờ lê la đầu đường xó chợ để ăn vài nghìn cơm […]
Cả ba đều quên mất một điều, khi họ xông ra chén cơm bụi thì bà Vy ăn gì vì nằm liệt? Lúc đấy. Nằm nghe các con bàn bạc sôi nổi như trong một cuộc hội thảo nâng cao chất lượng một đề tài cấp Bộ, bà lén thở dài. […]
Bà Vy nằm bất động sáu ngày. Không được tắm, không được rửa mặt mũi như trước. Tóc bà bết lại vì mồ hôi và quần áo dù ngày nào cũng thay nhưng luôn phảng phất mùi gì khó tả lắm. Bà Mộc sang chơi, trách:
– Tại bà. Bà chiều chúng nó quá. Bà hầu chúng nó tận răng, giờ chúng nó phải làm thì chẳng đứa nào chịu đâu? Mà có muốn cũng chẳng biết cách mà làm. Bà có dạy chúng đâu?
Ba Vy sụt sùi:
– Là mẹ mà bà. Chúng nó có đến bốn, năm mươi tuổi với tôi vẫn chỉ lên mười.
Hai bà đang rủ rỉ, rù rì thì anh cả phanh xe đến kịt. Và đằng sau là một bà già chừng 60- 70 tuổi ngồi ngất ngưởng thò chân chống xuống theo.
Anh cả cười vang từ ngoài đường:
– Chào Bác Mộc. Chào mẹ. Con đã tìm được giải pháp hữu hiệu tuyệt vời rồi. Đây là người giúp việc của mẹ. Mẹ cần gì, đã có bà. Anh cả quay lại:
– Bà tên là gì?
Bà già nhìn mọi người, cười vu vơ ra chiều nịnh bợ, rõ ràng là mừng rỡ.
Anh cả nói to hơn:
– Bà tên là gì?
Bà già nghiêng nghiêng đầu, vẫn cười, rồi gật đầu tỏ ý hiểu biết và đi về phía bếp.
Anh cả chạy theo kéo bà già lại, hét vào tai:
– Bà tên là gì?
Bà già giật mình đánh đùng vì màng nhĩ đã được thông. Móm mém:
– Tên là gì á? Tôi tên là Đất. […]
Từ ngày có bà Đất, bà Vy xem ra ốm hơn. Cô út dặn bà Vy cần cái gì cứ sai bà Đất rồi biến thẳng đi để làm nữ tì công chúa, trợ lí giám đốc trên sân khấu. […]
Ba tháng sau. Một hôm. Đêm. Cô út trở về sau đêm là hoa hậu ngành trồng sắn trong một tiểu phẩm hài phục vụ một đám nhậu được trả thù lao 150 nghìn đồng. Cô xốn xang trước một đêm diễn hoàn hảo cả về vật chất lẫn tinh thần. Mở cửa, cô út vào nhà, chưa kịp khoe chiến công với mẹ thì cô đá phải bà Vy nằm sõng soài. Cô bật điện.
Bà Vy đã chết. Ông bác sĩ bảo:
– Tôi đã nói rồi. Con người ta giống như cái chai nước suối kia, khi bị ngã giống như cầm chai xóc lên. Muốn yên phải để cho ổn định lại. Trẻ tuổi hồi lại nhanh. Người già lâu lắm. Mẹ cô già, lại ngã mạnh. Mọi thứ chưa đâu vào đâu đã tự đi. Sức khỏe bệnh tật không đốt cháy giai đoạn được. Đã thế lại còn tham việc.
Cô khóc:
– Thì mẹ cháu đã mang cái nạng[2] sắt chắc thế rồi. Ai ngờ.
Ông bác sĩ lắc đầu:
– Nạng sắt đâu có đỡ được mãi. Mẹ cháu chỉ có thể dựa vào các cháu thôi. Các cháu không cho dựa thì mới ra nông nỗi này.
(Nguyễn Thị Thu Huệ, Tuyển tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2018, trang 278-290).
Câu 1 (0,5 điểm): Đoạn truyện trên có những nhân vật nào?
Câu 2 (0,5 điểm): Xác định lời người kể chuyện và lời nhân vật trong các câu văn sau:
“- Là mẹ mà bà. Chúng nó có đến bốn, năm mươi tuổi với tôi vẫn chỉ lên mười.
Hai bà đang rủ rỉ, rù rì thì anh cả phanh xe đến kịt. Và đằng sau là một bà già chừng 60- 70 tuổi ngồi ngất ngưởng thò chân chống xuống theo.”
Câu 3 (1.0 điểm): Dựa vào các chi tiết trong văn bản, hãy nêu và lí giải những đánh giá của anh/chị về số phận của nhân vật bà Vy.
Câu 4 (1.0 điểm): Vì sao ở cuối truyện, ông bác sĩ lại nói “– Nạng sắt đâu có đỡ được mãi. Mẹ cháu chỉ có thể dựa vào các cháu thôi. Các cháu không cho dựa thì mới ra nông nỗi này.”?
Câu 5 (1,0 điểm): Anh/Chị tiếp nhận được thông điệp nào từ đoạn trích trên? Thông điệp đó có ý nghĩa gì với cuộc sống của anh/chị?
Bài 4. Phần Đọc – hiểu (4,0 điểm)
Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
| Đó là mùa của những tiếng chim reo
Trời xanh biếc, nắng tràn lên khắp ngả Đất thành cây, mật trào lên vị quả Bước chân người bỗng mở những đường đi
Đó là mùa không thể giấu che Cả vạn vật đều phơi trần dưới nắng Biển xanh thẳm, cánh buồm lồng lộng trắng Từ những miền cay đắng hóa thành thơ.
Đó là mùa của những ước mơ Những dục vọng muôn đời không kể xiết Gió bão hòa, mưa thành sông thành bể Một thoáng nhìn có thể hóa tình yêu |
Đó là mùa của những buổi chiều
Cánh diều giấy nghiêng vòm trời cao vút Tiếng dế thức suốt đêm dài oi bức Tiếng cuốc dồn thúc giục nắng đang trưa
Mùa hạ của tôi, mùa hạ đã đi chưa Ôi tuổi trẻ bao khát khao còn, hết? Mà mặt đất màu xanh là vẫn biển Quả ngọt ngào thắm thiết vẫn màu hoa.
(Mùa hạ– Xuân Quỳnh, Thơ Xuân Quỳnh, NXB Văn học, 2016, tr. 34)
|
Câu 1 (1,0 điểm). Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào? Chỉ ra những đặc điểm của thể thơ đó.
Câu 2 (0,5 điểm). Những âm thanh nào của thiên nhiên được miêu tả trong bài thơ?
Câu 3 (1,5 điểm). Tìm và phân tích hiệu quả của một biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bốn khổ thơ đầu.
Câu 4 (1,0 điểm). Đọc bài thơ trên, em rút ra bài học gì cho bản thân?
Câu 5(4,0 điểm):
Từ ngữ liệu ở phần Đọc hiểu, em hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết phải nuôi dưỡng những đam mê đẹp đẽ của mỗi người trong cuộc sống.
Câu 6: (2,0 điểm). Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) theo phép lập luận diễn dịch nêu cảm nhận của em về khổ thơ sau:
Mùa hạ của tôi, mùa hạ đã đi chưa
Ôi tuổi trẻ bao khát khao còn, hết?
Mà mặt đất màu xanh là vẫn biển
Quả ngọt ngào thắm thiết vẫn màu hoa
Dạng bài tập viết vũ
Câu 1. Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích 10 dòng thơ cuối của bài thơ “Mùa cỏ nở hoa” – Hồng Vũ.
Câu 2. Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích truyện ngắn “Thầy hiệu trưởng” của Ét-môn-đô A-mi-xi.
Câu 3. Tình yêu thương của mẹ chính là thứ tình cảm vô giá giúp con trưởng thành. Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề : mỗi chúng ta cần làm gì để đền đáp công ơn của mẹ.
Câu 4. Trường học hạnh phúc tạo ra môi trường học tập tích cực và hiệu quả. Em hãy viết bài văn nghị luận khoảng 400 chữ trình bày suy nghĩ: Làm thế nào để xây dựng trường học hạnh phúc.
Câu 6 (2,0 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích ý nghĩa của đoạn truyện được trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 7 (4,0 điểm): Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) bàn về ý kiến sau: Hãy luôn tin rằng: Bạn là ngôi sao chờ ngày tỏa sáng.
Trong văn bản, có sử dụng cách dẫn trực tiếp và gián tiếp.
Câu 8(4,0 điểm): Từ ngữ liệu ở phần Đọc hiểu, em hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết phải nuôi dưỡng những đam mê đẹp đẽ của mỗi người trong cuộc sống.
Câu 9: (2,0 điểm). Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) theo phép lập luận diễn dịch nêu cảm nhận của em về khổ thơ sau:
Mùa hạ của tôi, mùa hạ đã đi chưa
Ôi tuổi trẻ bao khát khao còn, hết?
Mà mặt đất màu xanh là vẫn biển
Quả ngọt ngào thắm thiết vẫn màu hoa
Câu 11(4,0 điểm):
Từ ngữ liệu ở phần Đọc hiểu, em hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết phải nuôi dưỡng những đam mê đẹp đẽ của mỗi người trong cuộc sống.
Câu 12: (2,0 điểm). Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) theo phép lập luận diễn dịch nêu cảm nhận của em về khổ thơ sau:
Mùa hạ của tôi, mùa hạ đã đi chưa
Ôi tuổi trẻ bao khát khao còn, hết?
Mà mặt đất màu xanh là vẫn biển
Quả ngọt ngào thắm thiết vẫn màu hoa
[1] Nguyễn Thị Thu Huệ (sinh năm 1966) tại Quảng Ninh, là một trong những nữ nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một số tác phẩm chính: Cát đợi (truyện ngắn 1993), Hậu thiên đường (truyện ngắn 1994), Phù thủy (truyện ngắn 1995),…
[2] Nạng: gậy có ngáng ở trên, dùng đề chống, đỡ cho khỏi ngã
⚠️ Trang web không thu bất kỳ khoản phí nào khi tải tài liệu. Mọi nội dung đều miễn phí cho học sinh và giáo viên.
🚫 Khuyến nghị: Không thực hiện thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào cho các quảng cáo hoặc liên kết mạo danh website.
☕ Nếu bạn thấy tài liệu này hữu ích, hãy ủng hộ mình một ly cà phê nhỏ để mình có thêm động lực biên soạn, cập nhật và duy trì website miễn phí, không quảng cáo gây phiền nhé!
💬 Mỗi tháng có hơn 20.000 học sinh truy cập để học tập miễn phí — cảm ơn bạn đã giúp mình duy trì dự án này! ❤️
📝 Tổng hợp đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Ngữ văn từ lớp 6 → 12
Bộ sưu tập đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Ngữ văn cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12. Mỗi đề đều kèm đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết giúp học sinh ôn luyện hiệu quả trước kỳ thi.
🧠 Cập nhật liên tục – giúp học sinh ôn tập vững vàng trước kỳ thi giữa học kì.
📚 Ghi chú bản quyền & lời cảm ơn
Các tài liệu trên website được biên tập, định dạng lại và tổng hợp
từ nhiều nguồn công khai, nhằm mục đích hỗ trợ học tập, chia sẻ tri thức cho cộng đồng học sinh.
Nếu bạn là tác giả hoặc sở hữu bản quyền và không muốn nội dung xuất hiện tại đây, vui lòng liên hệ qua email mrcao.aof@gmail.com để mình gỡ xuống ngay. Xin chân thành cảm ơn!