PHẦN I. ĐỌC- HIỂU (4,0 điểm)
Đọc kĩ văn bản sau:
THÁNG NĂM CỦA BÀ
Tháng Năm có đàn chim ngói
về ăn hạt trên cánh đồng bà ngoại
Trời thì xanh như không thể biếc hơn
Cháu đội nón đôi chân trần trên đất
Gặt về phơi cả ba tháng nhọc nhằn
Ba tháng nhọc nhằn nuôi mày lớn lúa ơi
Hoa cỏ may đan chéo bàn chân bà tứa máu
Mồ hôi xuống như là mưa tháng sáu
Lưng bà còng lưng lúa trĩu như nhau
Bà ngoại trồng lúa bà ngoại nhai trầu
Suốt một đời không đi ra ngoài mái đình bến nước.
Nỗi vất vả ấy lấy gì đo được
Như hạt thóc nảy mầm trổ bông
Tháng Năm này cánh đồng bà có nhiều chim ngói không
Lưng bà mỗi ngày lại gần hơn mặt đất
Cháu mong lắm được trở về đi gặt
Phơi giúp bà hạt giống để mùa sau
(Bình Nguyên Trang, Bài hát ngày trở về, NXB Văn học , 2024, tr.85,86)
Câu 1 (0,75 điểm) Xác định thể thơ và cho biết những dấu hiệu hình thức của thể thơ đó biểu hiện trong bài thơ.
Câu 2 (0,75 điểm) Liệt kê những hình ảnh xuất hiện trên cánh đồng bà ngoại vào tháng Năm.
Câu 3 (0,75 điểm) Anh (chị) hiểu nội dung hai câu thơ:
Ba tháng nhọc nhằn nuôi mày lớn lúa ơi
Hoa cỏ may đan chéo bàn chân bà tứa máu
như thế nào?
Câu 4 (0,75điểm) Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong hai câu thơ:
Mồ hôi xuống như là mưa tháng sáu
Lưng bà còng lưng lúa trĩu như nhau
Câu 5 (1,0 điểm) Nội dung của hai câu thơ:
Cháu mong lắm được trở về đi gặt
Phơi giúp bà hạt giống để mùa sau
gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì? (Trình bày bằng một đoạn văn có độ dài từ 7-10 câu ).
PHẦN II. VIẾT (6,0 điểm)
Viết bài văn phân tích truyện ngắn Bát phở của nhà văn Phong Điệp.
(Lược trích một phần: Nhân vật “tôi” đi ăn phở tại một quán phở khá ngon, có tiếng ở Hà Nội. Tôi tình cờ được chứng kiến câu chuyện của hai người cha đang đưa hai cậu con trai từ quê lên Hà Nội thi Đại học. Hai người bố sau khi đã trao đổi với nhau mất vài phút, họ cùng bước vào quán phở chỗ “tôi” đang ngồi).
Cả bốn người họ nhìn sang tôi, nhìn sang những bàn khác, rồi tần ngần nhìn tới nhìn lui cái biển ghi trên cửa quán.
– Phở bò nhé? Tái hay chín? Thêm cả quả trứng cho chắc bụng nhé?
Hai cậu con nhè nhẹ gật đầu:“Vâng, gì cũng được”.
– Thế thì cho hai phở bò chín. Hai trứng.
Thằng nhỏ chạy bàn vo cái khăn trong tay, tần ngần nhìn bốn người, ý chừng như muốn hỏi:“Sao bốn người mà chỉ có hai bát?”. Nó chạy ra chỗ ông chủ quán, chỏng lỏn:“Hai bò!”
… Trong tích tắc, hai bát phở sóng sánh được bê ra, đặt trịnh trọng trên bàn. Chúng mày ăn đi” – Một trong hai người cha lên tiếng. Đoạn hai ông kéo xích cái ghế ra ngoài một chút, thì thầm nói chuyện với nhau. Đại loại ba cái chuyện mùa màng, bò đẻ, vải thiều sụt giá… Rồi tới nữa là chuyện phòng trọ trên này sao đắt chi mà đắt. Sáng mốt ngủ dậy, mình phải trả phòng luôn, không là họ tính thêm một ngày nữa. Mình đợi chúng nó ngoài phòng thi, thi xong thì ra bến xe về luôn. Cần thì mua mấy tấm bánh mì, lên xe ăn tạm. Về đến quê rồi, chúng nó thích ăn gì, tha hồ ăn. Chứ trên này, chậc…chậc…
Cuộc sống nơi đây hẳn là khác rất xa với nơi họ vẫn sống hàng ngày, nơi mà họ đang thon thót về đợt vải năm nay, con bò sắp đẻ lại lăn đùng ra ốm. Họ chỉ vừa lên đây vài ba bữa mà đã thấy lâu quá trời quá đất. Bộ quần áo chỉn chu nhất trong tủ quần áo của hai ông bố nông dân ấy, đều đã mang cả ra đây để mặc rồi. Những bộ quần áo không còn rõ mầu sắc ban đầu của vải nữa. Nhưng dưới quê, chỉ có lễ trọng họ mới mặc mà thôi.
Trong khi ấy, hai cậu con vẫn cặm cụi ngồi với bát phở của mình. Chúng không nói gì. Không cả dám khen một câu đại loại:“Phở ở đây ngon quá!”. Hàng phở này ngon thật. Tôi vốn rành ăn phở, những quán thế này không thật nhiều. Nhưng vì sao chúng không hồ hởi mà thốt ra một câu như thế?
Và tôi, không kìm nén được mình, cứ hướng sang phía bốn con người ấy. Bốn con người ngồi lặng một góc giữa cái quán ồn ã. Người cha sẽ đợi những đứa con của mình ăn đến tận thìa nước cuối cùng, rồi lẳng lặng moi cái ví bằng vải bông chần màu lam, cất trong ngực áo ra. Ông sẽ phải đếm một lúc cho những tờ hai nghìn, năm nghìn, mười nghìn để sao cho đủ ba mươi nghìn đồng, trả cho hai bát phở…
Hai cậu con trai lặng lẽ bên những người cha. Chúng nhìn những đồng tiền đi ra khỏi ví của cha. Trên gương mặt chúng hiển hiện rõ ràng nỗi âu lo, mỏi mệt. Những kì thi, những nẻo đường ngổn ngang phía trước… Hôm nay, chúng nợ cha ba mươi nghìn đồng. Cuộc đời này, chúng nợ những người cha hơn thế nhiều…
(Trích Văn học và Tuổi trẻ, số tháng 5/2019, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.61-63)
*Phong Điệp sinh năm 1976, quê ở Nam Định. Truyện của Phong Điệp thường ít cảm xúc lai láng nghệ sĩ, mà tràn trề những câu văn miêu tả của người quan sát khách quan, nhẹ nhõm, dửng dưng nhưng lôi cuốn người đọc đến tận câu kết cuối cùng. Truyện ngắn Bát phở được viết vào tháng 7/ 2007, tại Hà Nội