Đề thi chính thức môn Ngữ Văn vào 10 Bến Tre 2025
Gợi ý đáp án
Đề thi chính thức
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẾN TRE
ĐỀ CHÍNH THỨC
ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP
NĂM HỌC 2025–2026
Môn: Ngữ văn (chung)
Thời gian: 120 phút (không kể phát đề)
(Đề thi gồm có 02 trang)
I, Đọc hiểu
Câu 1. (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
CƠM MÙI KHÓI BẾP
Bốn năm thì ngày lấy vợ. Tết này anh mới đưa được cả vợ và con về quê. Từ Sài Gòn về miền Trung không hẳn quá xa, nhưng vì có đứa con nhỏ nên chuyến đi lại khó khăn. Mấy lần trước anh về một mình, năm hôm lại trở vào. Lần này cả nhà mới được về quê, cho đứa con ăn Tết quê lần đầu.
Bà mẹ ngoài sáu mươi đón đứa cháu ra tận ngõ đón. Lưng bà đã bắt đầu còng hình đòn gánh. Tay phải bà cắp bồng đứa cháu nội, tay trái bà vịn con dâu bước ra khỏi taxi. Bà chen vội cả nhà dắt vào góc nhà, bảo: “Chắc bây bới đường xa, bụng đói rồi. Mẹ có nấu cơm để dành cho tụi bây ăn cơm nhà mình ngày đầu năm”. Bà nói rồi đi vào bếp, dở nắp nồi, dọn ra mâm. Mâm cơm có bát mắm cái chưng thịt, có đĩa cá nục kho nghệ, có dĩa rau luộc chấm mắm nêm. Đặc biệt, nồi cơm thơm mùi khói rơm.
Hôm sau bà lò mọ dậy từ lúc trời chưa hừng sáng, nhóm lửa rơm, bắc nồi cơm. Thằng cháu nội bà nuôi chạy xuống thấy khói bếp bốc ngùn ngụt, khiếp quá hét toáng lên: “Cháy nhà!” Anh chỉ đang ngồi giật mình vùng dậy. Anh bồ nhà đã có bếp gas, mẹ giữ chi bếp rơm đó nữa cho cực. Bà cười. “Tui bây ăn cơm nồi cơm điện thành phố rồi, về quê mẹ nấu cơm lửa rơm cho thơm mùi đồng mùi rạ. Mà cơm nấu rơm mới có miếng cháy ăn giòn. Mấy anh nhà bà bữa nào cũng khoái miếng cơm cháy ta giấu này lên bưng bình chẳng chịu ăn. Nhớ không?” Tròn rang tang tiếng sang, thây khói bay lên len qua mái tranh, chỉ con thở dài ngắt. Nhớ khúc sân vườn ngày xưa mẹ anh chạy xuống bếp nấu ăn, mẹ nấu những bữa cơm nghiêng hết một lúc. Thức giấc giờ nấp nơi rơm nùi cơm. Rồi lay ảnh con đi học, mẹ lại ngồi xuống với nồi cơm khói bay lên. Lên vào Sài Gòn học nghiệp, cuộc sống vợ chồng con ở đây, xa cái bếp đã quen thân quen. Vợ con suýt xoa vì miếng cơm cháy ăn sáng ở nhà. Cất bưng cũng “lười” nên sáng ra anh chở mẹ đi chợ, bà thích mua cá thu, cá lưỡi trâu tẩm ướp bỏ tủ lạnh, sáng ra đem ra nướng bếp lửa than hồng, rồi bày lên bàn ăn. Có con dâu bảo: “Mẹ bây nấu bữa sáng làm gì cho cực. Chúng con ra quán ăn miếng là có việc”. “Bậy như ni! Bữa ni là để cho bữa sáng chồng vợ con cái ăn với nhau. Không ăn với nhau là mất cái ngon rồi”. Bà luôn nấu bữa sáng cho bữa vợ chồng con. Món quen bà làm là cháo cá lóc, cá thu, cháo gà, cháo vịt… Anh biết, mẹ nấu cực. Nhưng mẹ thích thế. Mỗi sáng có thời gian bà lọ mọ với góc bếp, lửa nhóm lên, nồi cháo nóng lên, hớp một cái là ấm lòng.
[…]Chưa hết Tết, mới ngày mùng bốn anh lại phải đưa vợ con vào Sài Gòn. Bà mẹ dậy sớm làm gà, nấu cơm. Vẫn nồi cơm khói rơm, vẫn cá kho. Bà bới vào chiếc mẹt cơm, đậy nắp. Bà dúi cho con dâu: “Bây đem lên xe, ăn dọc đường. Bữa ni có bữa trưa rồi đó”. Con cháu nhỏ tỏ vẻ buồn ra theo: “Vào trong nhà ăn uống đang hoàng nghe bây. Đừng bỏ bữa sang không có thương bằng cơm thương”.
Vào tới Sài Gòn cả mẻn cơm vẫn còn một nửa. Vợ định đem đi đổ. Anh cản, bảo để đấy, phơi khô cất giữ làm kỷ niệm.
Qua tháng ba nghe tin mẹ bệnh, anh tức tốc về nhà. Nằm trên giường, gặp con, câu đầu tiên bà hỏi: “Con ăn chi chưa. Mẹ không bác cơm được. Thôi ra đâu cháo ăn tạm. Bữa nào khỏe mẹ nấu cơm cho ăn. Tội nghiệp”.
Nhưng mẹ không khỏe nữa, yếu dần, được thêm hai bữa thì nhắm mắt.
Đưa mẹ ra đồng xong, về nhà nhìn chiếc mên cơm đậy kín trên bàn thờ, anh thấy nhói lòng. Ấn hận. Thế là hết cơ hội được ăn với mẹ một chén cơm sáng thật đầy, để nghe mẹ nói câu “Không ai thương bằng cơm thương”. Tiếc muộn. Thèm miếng cơm cháy mẹ cất giành. Giờ vĩnh viễn không còn ai nhóm bếp nấu miếng cơm quê, cả mùi khói bếp. Chỉ có nồi cơm cháy đựng miếng cơm cháy trong nhớ tiếc.
Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh đậy sẵn nồi nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói…
(Theo Hoàng Công Danh, Chuyến tàu về ngắn, NXB Trẻ, 2016, tr.49–54)
Thực hiện các yêu cầu:
- Câu chuyện trong đoạn trích được kể theo ngôi kể thứ mấy?
- Theo đoạn trích, nhân vật người mẹ đã có những hành động và tâm trạng như thế nào khi đón các con về quê ăn Tết?
- Phân tích tác dụng của ngữ pháp câu:
“Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh đậy sẵn nồi nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ.” - Theo em, mẹ là người như thế nào qua những câu văn sau:
Nằm trên giường, gặp con, câu đầu tiên bà hỏi: “Con ăn chi chưa. Mẹ không bác cơm được. Thôi ra đâu cháo ăn tạm. Bữa nào khỏe mẹ nấu cơm cho ăn. Tội nghiệp”.
Câu 2. (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (150 chữ) trình bày điều em cảm nhận được sau khi đọc đoạn trích:
“Đưa mẹ ra đồng xong, về nhà nhìn chiếc mên cơm đậy kín trên bàn thờ, anh thấy nhói lòng. Ấn hận. Thế là hết cơ hội được ăn với mẹ một chén cơm sáng thật đầy, để nghe mẹ nói câu ‘Không ai thương bằng cơm thương’. Tiếc muộn. Thèm miếng cơm cháy mẹ cất dành. Giờ vĩnh viễn không còn ai nhóm bếp nấu miếng cơm quê, cả mùi khói bếp. Chỉ còn nồi cơm cháy đựng miếng cơm cháy trong nhớ tiếc.”
Câu 3. (4,0 điểm)
Dựa vào những gợi mở từ đoạn trích Cơm mùi khói bếp của Hoàng Công Danh, viết bài văn nghị luận (500 chữ) suy nghĩ của em về tình mẫu tử.
HẾT
Gợi ý đáp án
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Câu 1:
Ngôi kể thứ 3.
Câu 2:
Khi đón các con về quê ăn Tết, người mẹ có nhiều hành động chăm sóc tận tình và tâm trạng đầy yêu thương, xúc động:
- Hành động:
- Chạy ra tận ngõ đón con cháu.
- Tay cắp cháu, tay xách đồ.
- Pha nước chanh, nấu cơm bằng rơm để “thơm mùi đồng mùi rạ”.
- Dậy sớm nấu ăn, chuẩn bị cả mẻn cơm cho con đem đi đường.
- Tâm trạng:
- Vui mừng, xúc động khi con cháu về thăm (“nhà vắng vẻ mấy lâu”).
- Hơi buồn và chạnh lòng khi con dâu chê cơm quê.
Câu 3:
- Trạng ngữ chỉ thời gian: Hôm lên đường vào Sài Gòn
- Chủ ngữ: anh
- Vị ngữ: dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ
Câu 4:
Qua những câu văn này, mẹ hiện lên là một người mẹ giàu tình yêu thương, luôn nghĩ đến con cái dù bản thân đang yếu bệnh:
- Khi gặp con, điều đầu tiên bà quan tâm không phải bản thân mà là:
“Con ăn chi chưa?” - Dù đang bệnh không thể nấu cơm, bà vẫn áy náy, lo con phải ra ngoài ăn:
“Thôi ra đâu cháo ăn tạm.” - Bà luôn hứa sẽ cố gắng khi khỏe hơn:
“Bữa nào khoẻ mẹ nấu cơm cho ăn.” - Từ “Tội nghiệp” bà nói về con nhưng cũng như tự trách mình, thể hiện tấm lòng yêu thương vô điều kiện của người mẹ.
→ Mẹ là người tận tâm, tận tuỵ, luôn hi sinh và dành trọn vẹn tình thương cho con cái, ngay cả trong lúc đau ốm, cuối đời.
PHẦN II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Bài làm có thể triển khai theo nhiều cách, sau đây là gợi ý:
Mở đoạn:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu cảm nhận chung về đoạn trích.
Thân đoạn:
- Cảm xúc và hành động của người con:
- Ăn hận: Nhận ra những cơ hội đã mất (không còn được ăn cơm cùng mẹ, nghe lời dặn dò “Không ai thương bằng cơm thương”).
- Tiếc nuối: Nhớ về hương vị món ăn mẹ nấu (“miếng cơm cháy… gói vị đặc trưng, mùi hương đồng mùi nước quê, cả mùi khói bếp”) – một hương vị không thể tìm thấy ở nơi khác, gắn liền với tình yêu thương của mẹ.
- Tình mẫu tử thiêng liêng:
- Hành động của người con sau này:
“Anh dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói…” - Hành động này thể hiện sự tiếp nối những điều mẹ đã làm, nhưng trong sự vụng về, khó khăn (“Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói…”) cho thấy sự thiếu vắng, không thể bù đắp được của mẹ.
- Hành động của người con sau này:
→ Gợi ra thông điệp về sự trân trọng những điều giản dị, tình cảm gia đình khi còn có thể.
- Đánh giá về nghệ thuật.
Kết đoạn:
Khẳng định giá trị tác phẩm và liên hệ bản thân.
Câu 2 (4,0 điểm)
Bài làm có thể triển khai như sau:
- Mở bài:
Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề nghị luận. - Thân bài:
Luận điểm chính: Mẹ là người sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái.
- Mẹ có ý nghĩa vô cùng quan trọng với mỗi đứa con:
- Mẹ là người hi sinh thầm lặng.
- Mẹ đã trải qua 9 tháng 10 ngày mang nặng, vượt biết bao khó khăn, vất vả, lo lắng cho sự phát triển của con.
- Luôn tần tảo sớm hôm vì con, gánh vác mọi vất vả mà không than phiền.
- Nhiều lúc mẹ quên đi bản thân, chỉ mong con được đầy đủ, hạnh phúc.
- Mẹ là người truyền cho ta tình yêu thương và bài học làm người:
- Dạy chúng ta những bước đi chập chững, những tiếng nói đầu tiên, những lẽ nghĩa cơ bản.
- Dạy ta cách sống tử tế, biết yêu thương, sẻ chia.
- Dạy ta biết đứng lên khi vấp ngã, kiên cường trước khó khăn.
- Mẹ là chỗ dựa tinh thần vững chắc.
- Mẹ luôn bao dung, tha thứ cho những lỗi lầm của con, dù con có gây ra lỗi lầm gì.
- Mỗi khi buồn hay thất bại, mẹ là người luôn ở bên an ủi, động viên.
- Sự hiện diện và lời nói dịu dàng của mẹ có thể xoa dịu mọi tổn thương.
HS lựa chọn các dẫn chứng phù hợp.
- Mở rộng:
- Phê phán một bộ phận bạn trẻ vô tâm, thờ ơ với mẹ:
- Coi thường tình cảm của mẹ, nói lời tổn thương, thậm chí bỏ mặc mẹ lúc đau yếu.
- Chỉ khi mẹ mất mới nhận ra giá trị của mẹ.
- Phê phán một bộ phận bạn trẻ vô tâm, thờ ơ với mẹ:
- Bài học nhận thức, hành động:
- Cần nhận thức rõ vai trò và tình cảm to lớn của mẹ.
- Biết quan tâm, chia sẻ với mẹ từ những việc nhỏ: Hỏi han, giúp mẹ việc nhà, dành thời gian trò chuyện. Sống tốt, chăm học, cư xử lễ phép để mẹ yên lòng.
- Kết bài:
- Khẳng định vai trò và tình cảm sâu sắc dành cho mẹ.
- Nêu thông điệp hoặc liên hệ bản thân.