Đề thi chính thức môn Ngữ Văn vào 10 Nghệ An 2025
Gợi ý đáp án
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
ĐỀ THI CHÍNH THỨC
(Đề có 02 trang)
KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
NĂM HỌC 2025 – 2026
Môn thi: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian giao đề
I, Đọc hiểu (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
ẦM VU, ẦM VU…
(Trích)
Trần Đức Tiến
Những buổi chiều mùa hè, nhiều người trong xóm tôi thường rủ nhau ra con đồi chơi thả diều. Con đồi áp nơi chạy ngang qua cánh đồng, nên tha hồ có khoảng gian thoáng đãng cho diều lên. Người lớn thả diều của người lớn. Trẻ con chơi diều tre con. Diều bay cao đều bị lùa thấp, diều đứng yên đều nhão lộn. Lại có cả những cánh én gặp bẫy giăng lưới đen lì chĩa ngang tầm ngang tre, chùm đuối dài vày váy rất vui mắt. Mê chơi diều, nhiều khi sẩm tối chưa biết đường về nhà.
(Lược một đoạn: Tầm mười tuổi là tôi đã tự làm được diều. Chỉ cần vài thanh tre cật vót nan, mấy tờ giấy mỏng, một ít nhựa sung là có thể phất được một con diều. Đây điều cuốn theo lòng tôi đầy chuối, chít kháu, đáy gai. Diều của người lớn cấu kì hơn. Lúc đem diều đi thả, phải có kĩ thuật thì diều mới bay cao. Diều người lớn thường có thêm ống sáo, sáo đơn hoặc sáo kép…)
Mỗi sáo kêu một giọng. Tiếng thanh tiếng đục. Tiếng bổng tiếng trầm. Tiếng sáo con tuy thuộc vào diều nào đúng gió, diều nào hay nghiêng đảo (gọi là diều ngóay cháo). Diều ngóay cháo thì tiếng sáo nghe nghịch, hồn. Bốn, năm cái diều sáo lên lẫn âm thanh bẩn hao tàu nhạc đồng quê thật êm đềm, da diết. Những đêm trăng sáng, tiếng diều vi vút hơn, vang xa hơn. Để diều bay suốt đêm là thường. Âm thanh vời vợi trời mây ru mọi người vào giấc ngủ. Và trong giấc ngủ, có những giấc mơ thật ngọt ngào…
Tiếng sáo diều của anh Tùng không o o o như đều một giọng như sáo những con diều khác.
“Ầm vu… ầm vu… u u u…” Lúc xa lúc gần. Trường ở mạn đồng lại hóa ra mạn tây. Một con diều thả lên mà như có hai, ba con diều cùng nhau bay lượn. Chiều nào anh Tùng thả diều là chúng tôi biết ngay. Không lẫn đi đâu được.
Chị Thắm cũng mê tiếng sáo “ầm vu”, nhưng chị đâu biết con diều của ai? Vì chị không phải là người cùng làng. Chị ở mãi trên Đà Tiệm, cách làng tôi bốn, năm cây số.
Chị Thắm bị bệnh khó ngủ. Đêm chị thức chong chong. Nhưng ban ngày có khi chị lại thiếp đi bất chợt. Người ta kể có hôm chị đang cấy ngoài đồng thì ngủ gục úp mặt xuống bùn. Đến đêm chị Thắm trở lại căn nhà ngoài rìa, nghe mặt nhìn trời. Đêm đi đêm lại sáo soi trên khoảng trời tự ngọn tre cuối vườn sang nóc bếp nhà hàng xóm và vẫn không sao chợp mắt nổi. Những sợi dây thần kinh run dậy chỉ cần diều chị nghe tiếng sáo “ầm vu… ầm vu… u u u…” Cái thanh âm đặc biệt ấy giống như con thuyền bập bênh đưa chị trôi dần vào giấc mơ…
Nhưng có một đêm, tiếng sáo lạ lùng đột nhiên bị ngắt quãng. Rõ ràng đang “ầm vu” em tai, bỗng nhiên “u u u” mấy tiếng bị hụt hơi. Rồi cắt đứt hẳn rồi tắt tịt. Sáo rơi, nát cánh diều sao dựng yên, nhấp nháy. Chị Thắm lại thức chong chong nhìn sao.
Sáng sớm hôm sau, vừa ăn xong mẩu củ khoai lót dạ để chuẩn bị ra đồng, chị thấy bóng người lạ thấp thoáng ngoài rào nhà mình.
– Ai hỏi gì ngoài ấy thế? – Chị Thắm đánh tiếng hỏi vọng ra.
– Chị làm ơn… – Người đàn ông trẻ tuổi vừa nói vừa rụt rè đến gần:
– Anh mua tre đàn hay tre lạt?
– Dạ không… Con diều của tôi…
Chị Thắm nhìn lên. Chiếc diều cánh cóc như con chim không lồ bị trọng thương mắc trên ngọn tre, với một bên cánh bị gai tre dăm rách toạc. Một đoạn dây lòng thòng dính theo diều.
Người đàn ông lạ mặt ấy chính là anh Tùng. Hóa ra lúc nửa đêm về sáng, chị Thắm giật mình nghe tiếng “u u” ấy là lúc con diều của anh Tùng bị đứt một phần dây. Sáng ra, anh Tùng đánh đường ngược hóng gió đến tìm chị. Chạy mãi lên Đà Tiệm, may có một tay tre dài run rủi thế nào, anh tìm đến bụi tre cuối vườn nhà chị Thắm.
– Mọi công rào con anh lo tất.
Vậy là nhờ có con diều đứt dây một tối lẻ, anh Tùng gặp được chị Thắm. Rồi cả hai phải lòng nhau. Nửa năm sau, họ tổ chức đám cưới.
Chị Thắm khỏi hẳn căn bệnh mất ngủ. Anh Tùng cũng nghỉ chơi thả diều. Suốt ngày chỉ thấy anh thí thú với công việc đồng áng. Nghe nói nhiều người tìm anh mua cái gì, về làm sao để được tiếng “ầm vu” mà không bán. Anh vẫn để sáo gối với diều, và đêm cái kí niệm để đời ấy gác kĩ lên xà nhà.
(Trên đồi cánh chuồn chuồn, NXB Kim Đồng, 2020, tr.160–166)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định ngôi kể của truyện.
Câu 2. Vào Những đêm trăng sáng, tiếng sáo diều được tác giả miêu tả như thế nào?
Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong câu văn:
“Cái thanh âm đặc biệt ấy giống như con thuyền bập bênh đưa chị trôi dần vào giấc mơ.”
Câu 4. Theo em, vì sao nhiều người tìm đến hỏi mua cái ống sáo “ầm vu” nhưng anh Tùng không bán?
Câu 5. Nhận xét khung cảnh làng quê được thể hiện trong truyện ngắn.
II, Viết (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm):
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Tùng trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm):
Những trò chơi dân gian mang đậm nét văn hóa Việt đang dần bị mai một trong cuộc sống hiện đại nhưng điều đó không có nghĩa là nó không còn sức hấp dẫn.
Em hãy viết bài văn nghị luận bàn về vấn đề: Cách thức lưu truyền trò chơi dân gian trong đời sống hiện nay.
Chú thích:
(1): Nhà văn Trần Đức Tiến sinh năm 1953, quê Hà Nam, hiện sống và làm việc ở Vũng Tàu. Ông có nhiều tuyển tập truyện cho thiếu nhi như: Để mùa thu, Trên đồi cánh chuồn chuồn, Làm mèo, Xóm bờ giậu… Với ông, kí ức về tuổi thơ là tài sản tinh thần vô giá trong cuộc đời mỗi người.
(2): con đồi: bờ ruộng.
I, ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Câu 1 (0,5 điểm):
Ngôi kể thứ nhất.
Câu 2 (0,5 điểm):
Tiếng sáo diều được miêu tả vào đêm trăng sáng như sau:
Tiếng sáo diều vi vút hơn, bay xa hơn. Âm thanh ấy vời vợi trời mây.
Câu 3 (1,0 điểm):
Biện pháp so sánh: âm thanh được ví với “con thuyền bập bênh”.
Tác dụng:
- Giúp câu văn thêm sinh động, hấp dẫn, người đọc dễ hình dung.
- Gợi tả sinh động âm thanh đặc biệt của tiếng sáo diều, nhẹ nhàng, êm dịu, đều đặn.
- Diễn tả cảm giác thả lỏng, thư thái của chị Thắm khi nghe tiếng sáo — nó xoa dịu tâm hồn và từ từ đưa chị vào giấc ngủ.
Câu 4 (1,0 điểm):
Vì cái ống sáo “ầm vu” ấy không chỉ là một vật dụng bình thường mà là kỷ niệm thiêng liêng, gắn với mối duyên đặc biệt giữa anh Tùng và chị Thắm. Nó đã se duyên cho hai người, là kỷ vật của tình yêu và những ký niệm đẹp trong quá khứ, nên anh Tùng trân trọng giữ lại như một báu vật riêng.
Câu 5 (1,0 điểm):
Khung cảnh làng quê trong truyện ngắn hiện lên bình yên, trong trẻo và đậm chất thơ:
- Có những cánh đồng bát ngát, con đồi, bụi tre cuối vườn.
- Những buổi chiều mùa hè thả diều, đêm trăng sáng với tiếng sáo diều vi vút.
- Cuộc sống tuy giản dị, mộc mạc nhưng tràn đầy tình người và kỷ niệm đẹp.
→ Gợi nhớ về một làng quê yên bình, êm đềm, gần bó tuổi thơ và tình làng nghĩa xóm sâu đậm.
PHẦN II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Bài làm có thể triển khai theo nhiều cách, sau đây là gợi ý:
Mở đoạn:
- Giới thiệu chung.
Thân đoạn:
- Xuất thân và sở thích:
- Là người mê thả diều, đặc biệt có con diều với tiếng sáo “ầm vu” độc đáo.
- Tiếng sáo diều của anh không giống ai, lúc xa lúc gần, như hai ba con diều bay cùng lúc.
- Là một người chân thành:
- Khi con diều bị đứt dây, anh không ngại đường xa, lần theo hướng gió đi tìm, thể hiện sự trân trọng kỷ niệm và đam mê.
- Tình cờ gặp chị Thắm — người cùng mê tiếng sáo “ầm vu” mà không biết chủ nhân là ai.
→ Cuộc gặp gỡ nhờ con diều đứt dây trở thành mối nhân duyên đẹp. Sau khi cưới chị Thắm, anh Tùng dành hết tâm sức cho đồng áng, lưu giữ kỹ vật diều sáo như trân quý một phần ký ức.
- Nghệ thuật:
- Giọng văn nhẹ nhàng, chân thực.
- Miêu tả khung cảnh gợi cảm, giàu chất thơ.
Kết đoạn:
- Tổng kết vấn đề nghị luận.
Câu 2 (4,0 điểm)
Bài làm có thể triển khai theo nhiều cách, sau đây là gợi ý:
Mở bài:
- Giới thiệu chung.
Thân bài:
- Trò chơi dân gian: những hoạt động vui chơi giải trí do quần chúng nhân dân sáng tạo ra và được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
- Vai trò và giá trị của trò chơi dân gian:
- Là di sản văn hóa phi vật thể, lưu giữ bản sắc dân tộc.
- Gắn bó với đời sống cộng đồng, giúp gắn kết tình làng nghĩa xóm, tạo không khí vui tươi.
- Rèn luyện tư duy, sự khéo léo, tinh thần đồng đội và kỹ năng giao tiếp.
- Phản ánh tập quán, tín ngưỡng và tâm hồn dân tộc Việt.
- Thực trạng và nguyên nhân mai một của trò chơi dân gian:
- Đời sống hiện đại với công nghệ, trò chơi điện tử, mạng xã hội… khiến trò chơi dân gian ít được trẻ em quan tâm.
- Không gian tổ chức trò chơi dân gian ngày càng thu hẹp: thiếu sân bãi, thiếu người hướng dẫn.
- Sự thờ ơ của một bộ phận cộng đồng và thiếu sự quan tâm của gia đình, nhà trường.
- Giải pháp:
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về giá trị văn hóa của trò chơi dân gian.
- Đưa trò chơi dân gian vào trường học như một phần hoạt động trải nghiệm.
- Tổ chức các sân chơi cộng đồng, lễ hội để phục dựng và lan tỏa giá trị.
Kết bài:
- Khẳng định vai trò cần thiết của việc giữ gìn và phát huy trò chơi dân gian trong đời sống hiện đại như một phần không thể thiếu của bản sắc văn hóa Việt.