SỞ GD & ĐT THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG 2 |
ĐỀ THI GIAO LƯU HSG CẤP TỈNH
NĂM HỌC: 2024 – 2025 MÔN: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 150’ (Đề thi gồm có 04 trang) |
I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc bài thơ sau:
Mưa dầm trên mặt đất
Là máu đỏ ngần là mồ hôi mặn chát
Mưa mát mẻ trong thơ anh
Là bàn tay êm dịu vuốt xoa
Tôi chẳng thèm nghe nữa
Hãy cho tôi chút lửa
Trong ngôi nhà mùa đông
Để tôi nướng sắn ăn
Để tôi sưởi ấm
Để tôi đốt rừng gai đen rậm
Chống lũ rắn thiêu bầy muỗi độc
Để tôi soi tỏ mặt người yêu
Đôi mắt nhiều bóng tối
Giá buốt cào vầng trán sớm nhăn nheo
Lửa hãy cho em gương mặt sáng.
[…]
Có nhà triết học cổ Hy Lạp nói rằng:
“Bản chất của mọi vật là lửa”
Truyền từ đá sang gió
Từ nước sang gỗ
Phút đốt cháy là phút nảy mầm
Con người trao lửa cho nhau
Từ những lồng ngực tròn căng
Sự sống là lửa
Thiêu huỷ và sinh nở
Bình minh là lửa
Mở ngày mới và xé toang ngày cũ.
Cho ta làm ngọn lửa…
(Mấy đoạn thơ về lửa, Lưu Quang Vũ, Lưu Quang Vũ, Thơ và đời, NXB Văn hóa thông tin, 1997, tr167 – 168)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của văn bản.
Câu 2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai?
Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong những dòng thơ sau:
Sự sống là lửa
Thiêu huỷ và sinh nở
Bình minh là lửa
Mở ngày mới và xé toang ngày cũ.
Câu 4. Anh/Chị hiểu như thế nào về hình ảnh “lửa” trong bài thơ?
Câu 5. Từ mong muốn của tác giả trong câu thơ “Cho ta làm ngọn lửa…”, anh/chị hãy rút ra một thông điệp ý nghĩa cho bản thân.
- VIẾT
Câu 1 (4,0 điểm)
Nhà bác học Albert Ainstein từng nói: “Tôi biết ơn tất cả những người đã nói KHÔNG với tôi. Bởi nhờ họ tôi đã tự mình làm được điều đó”.
Từ ý kiến trên, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa những câu nói KHÔNG trong cuộc sống của con người.
Câu 2 (10,0 điểm)
“Sáng tạo nghệ thuật là một quá trình kép: nhà văn vừa sáng tạo ra thế giới vừa kiến tạo gương mặt mình” (L. Tolstoy)
Anh/Chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ điều đó qua truyện ngắn sau:
NGẢI ĐẮNG TRÊN NÚI CAO
– Đỗ Bích Thúy –
Mẹ và thằng Sinh đón tôi ở ngã ba nơi chân dốc dẫn lên ngôi nhà sàn. Ngôi nhà nằm chênh vênh trên cao kia, già nua, cũ kỹ và nhỏ nhoi. Khi nào nhớ về mẹ, tôi cũng hình dung thấy ngôi nhà với chín bậc cầu thang, nơi chân tôi run rẩy chập chững đi ra cuộc đời và từ cuộc đời đầy giông bão trở về.
Mắt tôi tự dưng mờ đi. Tôi luýnh quýnh: “Ềm! Ềm vẫn khoẻ đấy ư? Trời ôi con lo biết chừng nào là lo!”. “Biết tao khoẻ thì còn lâu mày mới về phải không Din?”. “Kìa… con xin ềm. Ềm đừng nói với con thế. Con vừa về tới nơi… ềm có thương con…”. Mẹ tôi ngoảnh mặt đi lặng thinh. Tiếng thở dài nhè nhẹ mà hun hút như cơn gió quặn lồng ngực tôi. Thằng Sinh ôm cổ dí cái mũi ươn ướt vào má tôi: “Bác ơi bà bây giờ lẩm cẩm rồi. “Hư nào!”. “Thật… Bố cháu bảo thế mà”.
Nhà tôi chỉ có hai chị em: tôi với em Dân. Cha tôi hy sinh khi tôi mới mười tuổi. Mẹ tôi ở vậy nuôi mẹ chồng, cả đàn em chồng lít nhít với hai chị em tôi. Rồi bà tôi mất. Các cô các chú lấy vợ, lấy chồng. Tôi đi xa, em Dân lấy vợ sớm rồi cũng đi nốt. Bỗng chốc, mẹ gần như chỉ có một mình. May mà em Dân lấy vợ quê. Từ ngày có thằng Sinh, mẹ tôi cũng khuây khoả.
Mẹ đi trước, tay dắt thằng Sinh chậm chạp leo dốc. Tôi thảng thốt: chẳng lẽ lưng mẹ đã còng thật rồi ư? Dấu vết thời gian, chính là nó, đã hiện diện khắc nghiệt trên dáng vóc mẹ không nấn ná, không gượng nhẹ. Đôi chân cũng không còn chiều theo ý mẹ và con đường như dài hơn, dốc hơn, khấp khểnh hơn. Ngày xưa, cũng trên con đường cheo leo dốc này, tôi đặt em Dân lên tấm lá cọ rồi kéo sầm sập chạy xuống, vừa chạy vừa la hét. Có lần, cả hai chị em ngã dúi dụi mặt vục vào đất cát không khóc thành tiếng. Ấy thế mà bà nội biết, không cho mẹ đánh đứa nào. Về sau, em Dân bảo: “Lúc ấy em thương mẹ quá. Đến cả cái quyền dạy con cũng bị cấm đoán”. Ý em trách bà nội. Bà nội tôi có tiếng khắc nghiệt với con dâu ở Tả Choóng bây giờ. Ấy thế mà rồi bà cũng chỉ ở với con dâu cả cho đến cuối đời, chứ không chịu đi với đứa con trai con gái nào.
Em dâu đi nương về, ngả vội gánh thóc nếp xuống cầu thang: “Chị Din đã về rồi này! Ôi tí nữa thì em dâu không nhận ra đấy. Ngày càng đẹp gái như bông hoa thì khổ trai bản thôi”. Em dâu cười, cái lúm đồng tiền xoáy sâu trên má. Em dâu kém tôi bốn tuổi. Ngày em về làm dâu nhà tôi, có bao nhiêu trai bản uống rượu say không về được. Người Tả Choóng bảo nhờ em Dân có cái chữ hơn người nên ông Dìn mới chịu gả con gái cho mà chỉ lấy ba mươi, chứ người như thế phải lấy cả trăm mới xứng. Trăm đồng bạc trắng, trăm cân gà, trăm cân lợn, trăm lít rượu ngô. Không phải nhà giàu mấy đời thì chịu thôi, làm đến chết cũng không trả hết nợ. Ngày có em dâu, tôi khấp khởi mừng, ít ra cũng an tâm phần nào khi đi xa. Hình như em sinh ra để làm dâu nhà tôi. Em giống mẹ tôi từ nết ăn ở trở đi. Có em, mẹ có thêm một đứa con gái, một đứa con gái mà mẹ mong mỏi chứ không như tôi. Tôi không nghe được mẹ muốn gì. Tôi vùng vẫy và tôi ra đi. Có những lúc mệt mỏi rã rời vì cuộc mưu sinh nơi xứ người, tôi chỉ thèm được vùi mặt vào ngực mẹ mà khóc cho thoả thuê. Nhưng rồi vẫn cứ xa mẹ xa hơn và lâu hơn.
[…]
Mãi tới lúc lên đèn em Dân mới về, thồ theo một can dầu sau xe. Trông em già và đen đi nhiều. Cứ tưởng làm cán bộ xã thì nhàn rỗi… Mâm cơm có canh măng giang nấu với thịt ếch, thịt gà rang lá chanh và ngải đắng xào mẻ. Nhìn đĩa rau ngải, tôi thèm mà không dám gắp, sợ hết. Để rồi đến cuối bữa vẫn còn nguyên. Em dâu ngạc nhiên: “Sao chị bảo thích rau ngải lắm?”. “Ừ…nhưng…”. “Nhưng lâu rồi lâu quá rồi không ăn cái đắng như thế nên quên phải không?”. Mẹ tôi vẫn cái giọng dằn dỗi.
Tôi lặng im. Dân nén thở dài. Trên mâm gỗ, đĩa rau ngải cứ nhoà dần nhoà dần đi… Tôi nghe quặn lên từ trong tiềm thức tiếng thác lũ thượng nguồn ào ạt, tiếng vỏ cây rừng mùa khô vỡ ra lách tách, tiếng con nai tách mẹ ngẩn ngơ thăm thẳm và cả những cơn gió mùa dài lê thê hun hút trên mái nhà. Năm ấy… Trời làm đất đai cạn kiệt. Tôi theo mẹ đem ống bương đi qua hai quả núi cách Tả Choóng nửa ngày trời mới lấy được thứ nước đầy rêu trong một cái vũng nhỏ. Rét căm căm, sương muối trút xuống từng tảng, sáng ra thấy cây cối đầy lá úa, dây bí ngoài vườn chưa kịp ra quả đã khô quắt queo. Mẹ gieo hạt cải cả tháng chưa thấy mọc. Không có hai thứ ấy người quê tôi không còn bất cứ thứ rau gì cho mùa đông. Một ngày, hai ngày, rồi cả tháng, bữa nào cũng chỉ có sắn nạo ăn với muối. Em Dân khóc ngằn ngặt, rồi bà, rồi mẹ cũng ứa nước mắt. Chiều hôm ấy, mẹ ra vườn quơ lấy một nắm ngải đắng. Bà bảo: “Đừng liều thế mẹ Din”. Mẹ tôi ngập ngừng: “Con dê ăn được chắc mình cũng ăn được, ềm à!”. Không có rau, miệng ai cũng phồng rộp cả lên. Nhưng ngải đắng xưa nay người ta chỉ lấy về khi trong nhà có người ốm, đem nướng trên phiến đá nung rồi để gối đầu, chứ chưa ai ăn bao giờ.
Mẹ đem luộc rồi xào mẻ. Mẻ chua muối mặn vậy mà ngải vẫn nhằng nhặng đắng. Tôi còn cố nuốt được vài ngọn chứ em Dân thì nhè ngay ra, lại khóc. Ấy thế nhưng tỉnh người ra thật. Dần dần, vài bữa rồi quen, ruột gan đỡ xót đi. Bà gắp một bát đem sang hàng xóm. Thế rồi, cả bản theo nhau hái về ăn thay rau. Người ta càng hái thì ngải càng đâm nhiều ngọn mặc cho những đợt gió mùa tới tấp ùa về quất ràn rạt trên mặt đất. Trên nương, trong vườn, cả dưới gầm sàn, chỗ cái ang nước khô vênh, chỗ nào cũng thấy ngải như một sự bù đắp cho sự khắc nghiệt của đất trời…
[…]
Và đây, tôi đang đứng trên đỉnh của một trong những ngọn đồi hùng vĩ nhất Tây Côn Lĩnh. Gió lồng lộng thổi như muốn cuốn tôi bay lên cao… Và kia, oà ra trước tôi xanh rợp tím ngắt bàng bạc trắng dập dềnh như những con sóng là cả triền núi mơn mởn ngải đắng vừa thức dậy từ sương mù. Tôi lao vô tri vào đấy, úp mặt lên nó. Một trạng thái nửa mê nửa tỉnh tựa hồ quay về những năm tháng rất xa, những năm tháng mà có lúc tưởng như nó chỉ còn phảng phất trong cuộc sống cuồn cuộn chảy dữ dội vật lộn hôm nay. Tôi gặp cha tôi ở đây. Ông vẫn cường tráng vâm vấp. Tôi rúc vào ông như một con gấu non…
Tôi đã trở về nơi tôi sinh ra. Nơi mặt trời lên muộn nhất và đi ngủ sớm nhất.
Tôi đã trở về trên núi cao.
– HẾT –
Chú thích:
– Nhà văn Đỗ Bích Thúy sinh năm 1975, hiện đang là Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Sinh ra tại vùng cao nguyên đá Hà Giang nên những tác phẩm của bà phản ánh khá đậm nét cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng dân tộc người Mông, Tày, Dao với thân phận và cảnh đời ngang trái của những người đàn bà vùng núi với cái nhìn đầy nhân bản và nữ tính. Ngôn từ và bối cảnh trong những tác phẩm của bà đậm chất miền núi.
– “Ngải đắng trên núi cao” là một truyện ngắn tiêu biểu của Đỗ Bích Thúy được đăng trên Diễn đàn văn học nghệ thuật Văn chương phương Nam ngày 28 tháng 06 năm 2018.