Phần : Đọc – hiểu:(4.0 điểm): Đọc đoạn ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi 1 đến 5.
Là cội nguồn. Tổ quốc là một tình yêu bắt nguồn từ mọi tình yêu. Là sự thân thiết, gần gũi. Tổ quốc là nhà. Người Việt mình dùng từ “nhà” chung cho cả hai khái niệm “house” và “home”. Những người con đi học xa Tổ quốc thường hỏi nhau không biết tình hình ở nhà thế nào rồi? Là sẻ chia, là sương là nắng, là sự sống, làrất nhiều chữ “s” trong dải đất hình chữ S này.
Tổ quốc có hương. Mùa hạ hương lúa, mùa thu hương cốm. Mùi lá mùi già đêm giao thừa. Dù ở đâu xa, nghe hương Tổ quốc, có thể nhận ra dáng hình một tình yêu. Tổ quốc có màu. Màu xanh của núi, của cây. Màu vàng của rơm của rạ. Màu đỏ của đất Tây Nguyên. Màu trắng của động cát Quảng Bình, của đồng muối Năm Căn…Tổ quốc mình còn có vị. Vị của Tổ quốc là vị mặn. Đất đai này mặn, nước non này mặn. Mặn mồ hôi, mặn nước mắt, mặn cả máu của bao thế hệ gìn giữ và tưới tắm mảnh đất này. Ngay cả tình yêu cũng mặn nồng.
Từ Đồng bào được viết hoa, vì đó là danh từ riêng chỉ có Tổ quốc ta mới có. Yêu Đồng bào là thương những đôi chân lam lũ. Là yêu những cái tên người ấp ủ hy vọng, là Hạnh, là Phúc, là Thịnh, là Vượng. Những cái tên người có ký ức xót xa, ký ức tự hào, là Thống là Nhất, là Quốc là Khánh…
Tổ quốc, Đồng bào là tình yêu, là trách nhiệm. Mỗi người hãy mở một ngăn “thư mục” trong trái tim để chứa rất nhiều file của tình yêu nặng trĩu này. Để rồi mình tự nghĩ, ngày mai mình sẽ là ai trong đất nước này? Mình sẽ làm gì cho xứ sở mình yêu thương? Khi chữ S nằm ngang nhìn tứ phía ngoài Tổ quốc sẽ là một dấu tương đương. Là trăn trở khi nào thì mới ngang hàng “sánh vai” với nhiều nước khác?
Ngày hôm nay, yêu Đồng bào là yêu cả bạn bè của Đồng bào mình nữa, để hội nhập kinh tế, để làm bạn với năm châu. Để nâng giá thương hiệu “Việt Nam” trong mắt bạn bè quốc tế.
(Trích Yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào, từ nhận thức đến hành động– Đoàn Công Lê Huy)
Câu 1. Xác định luận đề?
Câu 2. Theo tác giả Tổ quốc là gì?
Câu 3. Phân tích hiệu quả của biện pháp liệt kê trong câu “ Là sẻ chia, là sương là nắng, là sự sống, là rất nhiều chữ “s” trong dải đất hình chữ S này”.
Câu 4. Em hiểu như thế nào về lời của tác giả: “Tổ quốc mình còn có vị. Vị của Tổ quốc là vị mặn. Đất đai này mặn, nước non này mặn. Mặn mồ hôi, mặn nước mắt, mặn cả máu của bao thế hệ gìn giữ và tưới tắm mảnh đất này”?
Câu 5. Em có đồng tình với cảm nhận của tác giả về “hương vị” của Tổ quốc không? Vì sao?
Phần viết II:(16,0 điểm)
Câu 1(6,0 điểm): Từ nội dung đoạn trích trong phần Đọc hiểu, emhãy viết bài văn nghị luận với chủ đề: Cội nguồn trong ta.
Câu 2 (10,0 điểm):Có ý kiến cho rằng: Mỗi tác phẩm văn học chân chính phải là một lời đề nghị về lẽ sống. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ nhận địnhqua truyện ngắn Một bữa no của nhà văn Nam Cao.
Một bữa no
(Lược đoạn đầu: Con trai bà lão mất, con dâu đi lấy chồng mới, bà lão phải làm lụng nuôi đứa cháu gái. Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Công việc buôn bán, cuộc sống của bà ngày càng khó khăn. Hơn ba tháng nay, bà lão chỉ ăn bánh đúc. Mới đầu, còn đuợc ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Rồi bà quyết định đến nhà bà phó Thụ để thăm đứa cháu gái)
Cái đĩ vừa trông thấy bà, mừng rối rít. Nó cười rồi nó khóc chẳng biết vì sao cả. Nhưng đôi mắt khoằm khoặm của bà phó Thụ dội nước vào lòng nó. Nó tự nhiên ngượng nghịu. Nó không dám xoắn xuýt bà nó nữa. Nó cúi đầu, khẽ hỏi:
– Bà đi đâu đấy?
– Bà đến xin bà phó một bữa cơm ăn đây! Bà đói lắm.
Câu nói rất thật thà ấy, bà lão dùng giọng đùa mà nói. Như thế người ta gọi là nửa đùa nửa thật. Một cách lấp liếm cái ý định của mình bằng cách nói toạc nó ra. Cái đĩ bế em, dắt bà ra đầu chái, để không bị ai nhìn nữa…
– Da bà xấu quá! Sao bà gầy thế?
– Chỉ đói đấy thôi, cháu ạ. Chẳng sao hết.
– Lớp này bà ở cho nhà ai?
– Chẳng ở với nhà ai.
– Thế lại đi buôn à?
– Vốn đâu mà đi buôn? Với lại có vốn cũng không đi được. Người nhọc lắm.
– Thế thì lấy gì làm ăn?
– Chỉ nhịn thôi chứ lấy gì mà ăn!
Bà cháu mới kịp trao đổi với nhau từng ấy câu thì bà phó đã the thé hỏi:
– Nó bế em đi đâu rồi?
Ấy là dấu hiệu bà sắp gọi. Cái đĩ vội đặt em xuống đất, bảo:
– Bà giữ nó hộ con một tí.
Nó cởi dải yếm lấy ra một cái túi rút con con. Trong túi xóc xách mấy đồng trinh. Nó rút ra, đếm lấy hai xu, giúi cho bà…
– Con biếu bà để bà ăn bánh đúc. Bà về đi!
Tiếng bà phó giục:
– Cái đĩ đi đâu rồi? Đem em về đây, rồi quét nhà, dọn cơm.
– Vâng!
Nó tất tưởi bế em chạy về. Bà lão hãi chó, lẽo đẽo đi theo cháu. Bà phó trông thấy mà lộn ruột. Bà xa xả:
– Bà đừng theo đít nó thế. Bà cứ ngồi một chỗ rồi mà ăn cơm, Khiếp thật thôi!
– Vơơơng!…
Bà lão “vâng” thành một tiếng rên. Bà vào nhà, ngồi xón vén vào một xó ngay xuống đất. Bà phó cất lấy con. Cái đĩ lụt cụt chạy xuống nhà dưới. Một lát sau, tiếng đũa bát bắt đầu lạch cạch… Bà phó bảo:
– Bà xuống dưới này mà ăn cơm.
(Lược một đoạn: Bà lão ngồi ăn cơm với cái đĩ, nhà bà phó Thụ và bà ăn rất nhiều)
Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:
– Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…
(Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao)
Chú thích:
Nam Cao là cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có sở trường viết về người nông dân và người trí thức nghèo trước CMT8. Những trang viết của ông luôn xoáy sâu vào hiện thực nhức nhối của đời sống để từ đó bật lên tấm lòng thương người, thương đời sâu sắc. Như chính quan niệm cầm bút của ông “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.”, truyện ngắn “Một bữa no” được coi là tác phẩm tiêu biểu cho mảng đề tài viết về người nông dân.
———————–Hết————————-
☕ Nếu thấy tài liệu hữu ích, bạn có thể ủng hộ mình 1 ly cà phê để duy trì server!
(Hoàn toàn tự nguyện — cảm ơn bạn!)

📚 Ghi chú bản quyền & lời cảm ơn
Tất cả tài liệu trên website được sưu tầm & tổng hợp từ nhiều nguồn công khai trên Internet nhằm hỗ trợ học tập và chia sẻ kiến thức.
Nếu bạn là tác giả và không muốn tài liệu xuất hiện ở đây, vui lòng liên hệ để mình gỡ ngay. Email: mrcao.aof@gmail.com