PHẦN I: ĐỌC HIỂU ( 4.0 điểm) Đọc đoạn trích sau:
Ai cũng muốn mình xinh đẹp hơn, nhất là các cô gái đang cố hấp dẫn người khác, chỉ muốn mình xinh đẹp hơn người. Vì xấu đẹp sẽ là cái vốn quan trọng của họ, muốn giành lấy một giá trị cao hơn.
Tây Thi người đẹp số một trong lịch sử Trung Quốc có bệnh nhói tim, cho nên có lúc nhíu mày, trông càng đẹp. Chính nét đẹp ấy làm cho người ta thấy yêu thương hơn. Vì vậy cô láng giềng Đông Thi cũng bắt chước nhíu mày, kết quả càng nhíu mày lại càng xấu hơn, ai thấy cũng ghét. Thế mà Đông Thi lại cho rằng mình thật đẹp.
Đông Thi học nhíu mày chỉ vì muốn mình đẹp hơn, ai ngờ càng bắt chước thì càng xấu, làm che mất cả chân tình của mình.
Tây Thi có bệnh thật, người vốn đã rất đẹp, rất đáng yêu, cho nên làm gì cũng vấn rất đẹp, làm người ta càng yêu mến bội phần.
Cùng một động tác, nhưng với những người khác nhau, hiệu quả cũng khác nhau.
[…] Vẻ đẹp bên ngoài cố nhiên rất quan trọng, nhưng cái đẹp bên trong mới thật đáng quý, đáng yêu. Người đẹp người mà không đẹp nết thì cũng như Lưu Cơ đã nói “vàng ngọc dắt ngoài, giẻ rách bên trong”, tất nhiên làm cho người ta thêm ghét. […]
(Theo Triết nhân và đệ tử, Nguyễn Văn Sâm, NXB Thanh niên, 2005, tr.112 – 113)
Câu 1. (0,5 điểm) Xác định luận đề của đoạn trích trên.
Câu 2.(0,5 điểm) Theo đoạn trích, lí do nào khiến Đông Thi bắt chước Tây Thi nhíu mày và kết quả của việc bắt chước là gì?
Câu 3.(1,5 điểm) Chỉ ra và phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: Người đẹp người mà không đẹp nết thì cũng như Lưu Cơ đã nói “vàng ngọc dắt ngoài, giẻ rách bên trong”, tất nhiên làm cho người ta thêm ghét.
Câu 4.(1,5 điểm) Em có đồng tình với ý kiến của tác giả:“Cùng một động tác, nhưng với những người khác nhau, hiệu quả cũng khác nhau” không? Vì sao?
PHẦN VIẾT ( 16 ĐIỂM)
Câu 1 (6,0 điểm)
Từ phần đọc hiểu, em hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 500 chữ) trình bày suy nghĩ về ý kiến: Những giá trị bên ngoài rồi sẽ mất, những giá trị sâu bên trong vẫn luôn như vậy, ngày hôm qua, ngày hôm nay và mãi mãi.
Câu 2. (10 điểm)
Nhận định về thơ, Diệp Tiến cho rằng: “Thơ ca là tiếng lòng người nghệ sĩ”. Em hãy cảm nhận về tiếng lòng mà nhà thơ Nguyễn Hữu Quý gửi gắm trong bài thơ “Cơn mưa rừng chiều nay”?
Cơn mưa rừng chiều nay
Mấy mươi năm lặng lẽ dưới rừng sâu
Chúng tôi đến đưa anh về với mẹ
Tây Trường Sơn chiều nay mưa tầm tã
thác trời tuôn, nghiêng ngã gió bốn bề.
Tấm ni – lông dành che hài cốt
chúng tôi như cây đẫm buốt mưa rừng
tay đồng đội nâng niu đồng đội
cơn mưa rừng trào khóe mắt rưng rưng!
Dưới cơn mưa là nén hương cháy dở
chút hương quê chưa thơm hết lòng mình
đỉnh non cao òa cơn sóng vỡ
nhịp tim dồn thao thức phía bình minh.
Hóa thành đất cái gia tài của lính
vóc dáng mẹ cho cũng đã đất rồi
thành đất cả dòng tên cha gọi
đất khai sinh ngọn lửa dưới mưa trời!
Ngày mai anh về với mẹ
gửi lại cơn mưa thao thiết cho rừng
nắm đất Trường Sơn bọc trong vuông vải nhỏ
như lửa đầu nguồn thắm mạch đất quê hương.
(Nguyễn Hữu Quý, Theo https://vhnt.daklak.gov.vn/, ngày 26/7/2023)
*Chú thích:
Nguyễn Hữu Quý(1). Sinh năm 1956, quê ở tỉnh Quảng Bình, đại tá quân đội, hiện sống và làm việc tại Hà Nội. Nguyên là Trưởng ban Thơ Tạp chí Văn nghệ Quân đội, và viên Hội Nhà văn Việt Nam. Bài thơ Cơn mưa rừng chiều nay là những cảm xúc là chứng kiến việc đón hài cốt liệt sĩ hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ từ rừng Trường Sơn sau chiến tranh về với quê hương, nguồn cội.
YÊU CẦU CỤ THỂ
PHẦN | CÂU | ||
PHẦN ĐỌC HIỂU | Câu 1 | – Luận đề của đoạn trích Bàn về vẻ đẹp và giá trị của vẻ đẹp tâm hồn: | 0, 5
|
Câu 2 | – Lí do khiến Đông Thi bắt chước Tây Thi nhíu mày là vì muốn mình đẹp hơn.
– Kết quả: càng bắt chước thì càng xấu; làm che mất cả chân tình của mình, ai thấy cũng ghét. |
0,5 | |
Câu 3 | Thí sinh chỉ ra và phân tích đúng hiệu quả của một trong hai biện pháp tu từ:
– Chỉ ra biện pháp tu từ + Biện pháp so sánh: đẹp người mà không đẹp nết giống như vàng ngọc dắt ngoài, giẻ rách bên trong. + Chỉ ra hình ảnh ẩn dụ: vàng ngọc chỉ sự sang trọng, hào nhoáng bên ngoài; giẻ rách chỉ sự tầm thường, rẻ rúng bên trong. – Hiệu quả: + Làm cho câu văn sinh động, giàu sức gợi, cách diễn đạt ấn tượng. + Khẳng định những người đẹp người mà không đẹp nết thì chỉ sang trọng hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất bên trong lại rất tầm thường rẻ rúng. + Thể hiện thái độ phê phán của tác giả trước những người chỉ chú ý phô trương vẻ |
1,5 | |
Câu 4 | Thí sinh trình bày theo quan điểm của cá nhân: đồng tình hoặc không đồng tình; hoặc vừa đồng tình vừa không đồng tình. Nhưng những kiến giải phải thuyết phục; đảm bảo phù hợp với chuẩn mực đạo đức, văn hóa, pháp luật. | 1,5 | |
PHẦN VIẾT |
Câu 1 | 1. Kĩ năng: Đáp ứng đúng yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội; bố cục rõ ràng, hợp lí; lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục; dẫn chứng thực tế phù hợp; khuyến khích những bài viết sáng tạo.
2. Kiến thức: Trên cơ sở hiểu đúng vấn đề, biết cách làm bài nghị luận xã hội, thí sinh có thể trình bày, diễn đạt theo nhiều cách khác nhau song về cơ bản cần đảm bảo những |
0,5 |
a.Mở bài Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
b.Thân bài * Giải thích: – Những giá trị bên ngoài rồi sẽ biến mất: những yếu tố thuộc về hình thức bề ngoài chỉ có ý nghĩa tạm thời, có thể thay đổi theo thời gian. – Những giá trị sâu bên trong vẫn luôn như vậy, ngày hôm qua, ngày hôm nay và mãi mãi: những yếu tố thuộc về tinh thần, tâm hồn có tác động tích cực tới cuộc sống mới có ý nghĩa bền vững, lâu dài, bất biến. => Ý kiến nhấn mạnh và khẳng định giá trị của những yếu tố bên trong làm nên giá trị đích thực của con người trong cuộc sống. * Bàn luận – Thí sinh khẳng định và chứng minh tính đúng đắn của vấn đề + Những thứ bên ngoài vốn nhất thời, dễ đổi thay, phôi pha theo thời gian vì những tác động khách quan. + Những giá trị bên trong mang tính bền vững vì nó thuộc về bản chất, là yếu tố cốt lõi nhất làm nên giá trị con người. + Mỗi người có một giá trị riêng. Giá trị mỗi người không chỉ được đánh giá ở hình thức bên ngoài, ở sự chủ quan mà luôn được nhìn nhận, đánh giá khách quan từ những người khác thông qua cách sống, cách cư xử, những việc làm cụ thể, qua sự đóng góp cho cuộc đời. + Khi hiểu đúng giá trị con người, mỗi người sẽ luôn biết cách hoàn thiện bản thân, từ đó lan tỏa những giá trị tốt đẹp ấy trong cộng đổng. (Lưu ý: Thí sinh lấy dẫn chứng thực tế làm sáng tỏ vấn đề) * Mở rộng vấn đề + Đề cao giá trị bên trong không có nghĩa là xem nhẹ giá trị bên ngoài. Cần phải có thái độ hài hòa, cân đối, có cái nhìn tỉnh táo để xây đắp những giá trị bên ngoài và giá trị bên trong; từ đó hướng tới bồi đắp những giá trị đích thực lớn lao. + Phê phán những người chỉ chạy theo hình thức bên ngoài thái quá mà không chú ý đến việc bồi dưỡng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách. * Bài học nhận thức và hành động – Nhận thức đúng về giá trị đích thực của con người trong cuộc sống. – Tích lũy, trau dồi tri thức, nuôi dưỡng tâm hồn, hoàn thiện nhân cách. c. Kết bài: Khái quát, khẳng định lại vấn đề, liên hệ với bản thân. |
0, 5
1,0
2,5
1,0
0,5 |
||
CÂU 2 | NGHỊ LUẬN VĂN HỌC | 10 | |
I. Yêu cầu về kĩ năng
– Có kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học, biết huy động các kiến thức lí luận văn học và kiến thức về tác giả, tác phẩm để làm bài. – Vận dụng các thao tác lập luận phù hợp, lí lẽ xác đáng, trình bày khoa học, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. II. Yêu cầu về kiến thức Học sinh có nhiều cách trình bày khác nhau, song cần đạt được những nội dung cơ bản sau |
0,25
0,25 |
||
a. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề cần nghị luận b. Thân bài * Lí giải và khẳng định vấn đề: + Thơ là hình thức sáng tác nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu để diễn tả những xúc cảm trào dâng nơi tâm hồn nhà thơ. + Nói “thơ là tiếng lòng”: chính là những rung động mãnh liệt bật ra trong một phút thăng hoa cảm xúc của nhà thơ. => Thơ được tạo ra từ thực tiễn cuộc sống và cảm xúc tình cảm của nhà thơ. Cũng thông qua thơ, người nghệ sĩ gửi gắm tình cảm của mình. + Bài thơ “ Cơn mưa rừng chiều nay” là sự xúc động, tình cảm yêu mến, trân trọng và biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì đất nước. Đó là tiếng lòng mà Nguyễn Hữu Quý gửi gắm. * Chứng minh vấn đề: – Dẫn dắt, giới thiệu chung về bài thơ “Cơn mưa rừng chiều nay” của Nguyễn Hữu Quý. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu khái quát giá trị của tác phẩm. – Gắn bó với Trường Sơn, có nhiều tác phẩm về đường Trường Sơn, bộ đội Trường Sơn ghi dấu trong lòng bạn đọc, đại tá quân đội – nhà thơ Nguyễn Hữu Quý như một trong những “gạch nối” giữa các thế hệ cầm bắt thời chiến và thời bình khi sáng tác về chiến tranh cách mạng, trong đó có đề tài Trường Sơn. – Những tình cảm trong thơ Nguyễn Hữu Quý trong sáng, đẹp đẽ và nhân văn. Đó có thể là tình yêu đất nước, yêu quê hương, yêu gia đình, yêu thiên nhiên. Và với một dân tộc có truyền thống văn hóa tốt đẹp như dân tộc Việt Nam, không thể không nhắc đến tình cảm yêu mến, trân trọng và biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì đất nước, để mang lại hòa bình, tự do cho dân tộc. Bài thơ “Cơn mưa rừng chiều nay” là một sáng tác như vậy. – Luận điểm 1. Tiếng lòng cuả bài thơ là tái hiện đầy xúc động cảnh quy tập hài cốt liệt sĩ giữa núi rừng Trường Sơn và sự trân trọng dành cho các anh. (3 khổ thơ đầu) – Mở đầu bài thơ là những dòng tự sự nhẹ nhàng nhưng đủ khiến người đọc phải xúc động ngậm ngùi: Các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc đã phải nằm lại giữa rừng sâu lạnh giá, cô quạnh suốt “mấy mươi năm”. Đến khi được tìm đón về với quê hương, nguồn cội thì cũng trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “Tây Trường Sơn chiều nay mưa tầm tã Thác trời tuôn, nghiêng ngả gió bốn bề Xót xa, đau đớn trước tình cảnh mà các liệt sĩ phải chịu đựng, người đọc cũng khâm phục sự chịu đựng gian lao, vất vả của những người lính từng trực tiếp cầm súng chiến đấu dưới mưa bom bão đạn, nay lại dầm mình dưới thác lũ mưa nguồn để đón đồng đội đã ngã xuống trở về với thân nhân, với quê hương, nguồn cội. -Với những người lính, những người đồng đội đã may mắn được sống sót thì việc đền ơn đáp nghĩa, dù có gian khổ đến mấy, họ vẫn chịu đựng được, chỉ là thấy rất thương xót các anh đã nằm lại bao nhiêu năm rồi. Nghĩa tình đồng đội vẫn vẹn nguyên, và sự trân trọng, biết ơn dành cho các liệt | | sĩ được thể hiện qua hành động đẹp: dưới cơn mưa, cả khu rừng ướt đẫm, những người lính đã dành tấm ni lông duy nhất để che chắn, bảo vệ hài cốt liệt sĩ “Tấm ni – lông dành che hài cốt chúng tôi như cây đẫm buổi mưa rừng tay đồng đội nâng niu đồng đội cơn mưa rừng trào khỏe mắt rưng rưng! -Niềm xúc động trào dâng khi đón được đồng đội trở về cùng với cơn mưa rừng Trường Sơn khiến tất cả đều đẫm nước mắt. Nén hương cũng cắt nửa chừng. Đất trời và con người như rung chuyển đến tận cùng nỗi cảm thương xúc động: “Dưới cơn mưa là nén hương cháy dở chút hương quê chưa thơm hết lòng mình đỉnh non cao òa cơn sóng vỡ nhịp tim dồn thao thức phía bình minh.” * Luận điểm 2. Tiếng lòng là lời khẳng định về giá trị và ý nghĩa thiêng liêng về sự hi sinh của các anh hùng liệt sĩ. – Dù xúc động trào dâng khi đón được các liệt sĩ trở về, nhưng vẫn còn đó niềm đau thương, nghẹn ngào đến vô cùng: dưới cơn mưa như là chưa bao giờ trút nước đến thế, hài cốt cùng vật kỷ niệm của người liệt sĩ đã tan hòa, trải ra trên cả vùng đất rừng miền tây Trường Sơn: “Hỏa thành đất cái gia tài của linh vóc dáng mẹ cho cũng đã đất rồi thành đất cả dòng tên cha gọi đất khai sinh ngọn lửa dưới mưa trời!” -Người liệt sĩ đã hóa thân hoàn mỹ vào đất đai Tổ quốc, và như vậy, các anh đã hi sinh không chỉ một lần: khi gục xống dưới bom đạn kẻ thù, và nay, lại hóa thân vào đất rừng Trường Sơn, nơi các anh đã ngã xuống giữa tuổi thanh xuân. Chính các anh đã hóa thân thành một phần Tổ quốc, – Đón các liệt sĩ về với quê hương không chỉ để các anh yên nghỉ, mà còn là để các thế hệ hôm nay khắc ghi chiến công, bày tỏ sự tri ân đối với những người con anh hùng của dân tộc. Cơn mưa rừng vẫn tiếp tục thao thiết, như một lời giã biệt dành cho các anh: “Ngày mai, anh về với mẹ gửi lại cơn mưa thao thiết cho rừng” – Mang theo nắm đất Trường Sơn nơi liệt sĩ nằm xuống cũng đồng nghĩa với việc mang đầy đủ hài cốt của anh về quê nhà, linh hồn liệt sĩ và đồng đội của anh, vẫn nhớ mãi như nhớ một kỷ niệm sâu sắc của lần hy sinh thứ hai, để nắm đất Trường Sơn hòa vào mạch đất quê hương xứ sở của liệt sĩ như một lời khẳng định đầy sâu sắc: sự hi sinh của các anh hùng liệt sĩ đã góp phần làm cho đất đai, sông núi Việt Nam nối liền một mạch, và sự hi sinh đó như một ngọn lửa thắp lên tình yêu quê hương đất nước cho hôm nay và mai sau: “nắm đất Trường Sơn bọc trong vuông vải nhỏ như lửa đầu nguồn thẳm mạch đất quê hương” *Tiếng lòng những cảm xúc sâu sắc qua nghệ thuật của bài thơ – Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, phù hợp để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng. Sử dụng nhiều biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh, nhân hóa… và các từ lấy một cách đặc sắc và tinh tế. – Bài thơ có mạch cảm xúc độc đáo, lời và bố cục cô đúc, thể hiện niềm xúc động chân thành, nỗi xót xa và tình thương yêu như còn để lại dài lâu trong lòng độc giả. – Lời thơ giản dị như lời nói thường ngày, nhưng trìu mến và sâu xa ân nghĩa. * Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận, khẳng định giá trị bài thơ: Chiến tranh đem đến cho dân tộc ta quá nhiều đau thương và mất mát, để có được độc lập tự do hôm nay, biết bao người đã hi sinh, và trong số họ, có nhiều người đã phải nằm lại chiến trường. Bài thơ là lời nhắc nhở mỗi chúng ta phải luôn biết trân trọng sự hi sinh của các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì nước, vì dân, đó cũng chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. |
0,5
1,0
8,0 1,0
2,5
2,5
1,0
1,0 |
||
Gợi ý về thang điểm:
– Từ 8,0 đến 10,0 điểm: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên; có những phát hiện tinh tế, sâu sắc trên phương diện nội dung, nghệ thuật, có sự liên hệ so sánh, chỉ ra đầy đủ nét độc đáo trong bài thơ; có kĩ năng phát hiện, chọn lọc hình ảnh tiêu biểu; kết nối các ý sâu sắc; logic, sáng rõ, khoa học; lập luận chặt chẽ; văn viết có giọng điệu riêng, giàu hình ảnh, cảm xúc. – Từ 6,0 đến 7,75 điểm: Đáp ứng cơ bản các yêu cầu trên; hiểu và phân tích được nội dung, nghệ thuật của tác phẩm; phần liên hệ, so sánh còn chưa tường minh; diễn đạt mạch lạc, văn viết có cảm xúc. – Từ 4,0 đến 5,75 điểm: Đáp ứng được một số các yêu cầu trên; hiểu và phân tích được nội dung, nghệ thuật của tác phẩm nhưng thiếu sự am hiểu sâu; liên hệ, so sánh chưa tốt; văn viết chưa có cảm xúc. – Từ 2,0 đến 3,75 điểm: Hiểu được yêu cầu đề bài; có phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật, nhưng các ý chưa nêu đủ; so sánh, liên hệ chỉ chạm được một vài ý; mắc một số lỗi trong diễn đạt, chính tả. – Dưới 2,0 điểm: Không có kĩ năng làm bài; không hiểu tác phẩm; mắc quá nhiều lỗi diễn đạt, chính tả. – Điểm 0,0: Làm sai hoàn toàn hoặc không làm bài. |