Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn – Đề số 2
PHẦN 1. ĐỌC HIỂU ( 5 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau:
Con thú lớn nhất
Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo. Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ mầu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lươn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà – “Đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp( l) sau lưng.
Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt.. Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.
Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn là Then (2) bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ gầy của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.
Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?
Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú…Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái, cái ánh xanh gay gắt trên túm lông dầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: – Đùng! Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.
Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hôi như mùi chuột.
Miệng lâo hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già .. bỗng đứng phắt dậy nhanh như con sóc. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.
Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.
(1) Giỏ đeo, (2)Ông Trời (Những ngọn gió Hua Tát – Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 320)
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1. Nhân vật chính trong câu chuyện là ai?
Câu 2. Văn bản được kể ở ngôi kể nào?
Câu 3. Nhân vật lão thợ săn được xem là hiện thân của ai?
Câu 4. Chi tiết nào chứng tỏ người chồng là tay thợ săn cự phách?
Câu 5. Nguyên nhân cái chết của người vợ lão thợ săn?
Câu 6. Theo em, đâu là con thú lớn nhất (con công, người vợ hay lão chồng)? Vì sao?
Câu7. Qua câu chuyện, em rút ra được thông điệp gì?
Câu 8. Em có đồng tình với suy nghĩ: Then đã trừng phạt thế gian không? Vì sao?
PHẦN II. VIẾT (5.0 điểm)
Viết một bài văn nghị luận nêu suy nghĩ về tác hại từ lối sống tham vọng của con người trong xã hội hiện nay.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần | Câu | Nội dung |
I | ĐỌC | |
|
1.1 | Nhân vật chính là người chồng – lão thợ săn. |
1.2 | Kể theo ngôi thứ ba toàn tri. | |
1.3 | Lão chồng được xem là hiện thân thần Chết của rừng.. | |
1.4 | Là tay thợ săn cự phách, lão có thể bắn được con công đang múa. | |
|
2.1 | Lão thợ săn đã bắn chết vợ mình do lão tưởng nhầm đó là con công đang múa. |
2.2 | Con thú lớn nhất đời của lão thợ săn là chính lão; vì lão đã tự biến mình thành con thú tàn độc nhất. | |
2.3 | HS rút ra được thông điệp phù hợp với câu chuyện; gợi ý:
+ Đừng quá tham vọng, sẽ phải trả giá đắt; đừng quá ảo tưởng về tài năng của mình… + Có những sai lầm khi nhận ra đã muộn, không thể quay lại được. + Sống chan hoà với thiên nhiên, không tàn hại cuộc sống của tự nhiên. |
|
2.4 | HS có thể đồng tình/ không/ hoặc có ý kiến khác và lý giải hợp lý. Gợi ý: Then không trừng phạt thế gian;
+ Chính con người phải gánh lấy hậu quả từ những suy nghĩ, hành động của mình. + Gieo nhân nào gặt quả ấy… |
|
II |
|
VIẾT |
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận:
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề. |
||
b. Xác định đúng yêu cầu của đề:
Lối sống tham vọng của con người và tác hại của nó. |
||
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:
HS có thể viết bài nhiều cách trên cơ sở kết hợp được lí lẽ và dẫn chứng để tạo tính chặt chẽ, logic của mỗi luận điểm. Có thể theo hướng sau: |
||
* Giải thích: Tham vọng là những ước muốn, đòi hỏi vượt quá khả năng, giới hạn của bản thân mình; không hiểu rõ chính mình, đánh mất giá trị của bản thân trong cuộc sống.
* Bàn luận: Trong cuộc sống, vì sao con người không nên sống tham vọng? Tác hại của lối sống tham vọng. + Bằng mọi giá để đạt được mong muốn của mình, con người không thể đứng vững trước những tác động xấu của cuộc sống. + Bất chấp mọi giá trị, không còn nhận ra những gì phù hợp và cần thiết với mình. + Cuộc sống trở nên nặng nề, u ám, khó thanh thản vì mải chạy theo những điều vượt quá sức mình. * Mở rộng: Sống có khát vọng chứ đừng tham vọng, nhìn rõ bản thân để không sống kiêu ngạo hoặc quá tự ti về bản thân… * Bài học nhận thức và hành động – Nhận thức sâu sắc về tác hại của việc sống tham vọng. – Biết nhìn rõ chính bản thân mình để có lối sống tích cực, có ý nghĩa, mối quan hệ giữa người với người sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. |
||
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt |
||
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ | ||
Tổng điểm |