PHẦN ĐỌC –HIỂU ( 6,0 điểm)
Đọc kĩ đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Giữa năm 2015, bà Lê Thị Thảo, mẹ của Hòa, quyết định tặng thận…
[…] Tháng 3-2016, Hòa lên bàn mổ để tặng một quả thận cho một người phụ nữ trạc tuổi mẹ mình. Người được nhận thận quê ở Hà Nam, đã bị suy thận nhiều năm và cần được ghép thận để tiếp tục được sống.
[…] Để tặng được quả thận, từ khi quyết định hiến tặng đến khi lên bàn mổ, bà Thảo đã phải hơn 10 lần một mình một xe máy từ Bắc Ninh ra bệnh viện Việt Đức ở Hà Nội để làm các xét nghiệm. Con gái bà Thảo cũng vậy, và cuối năm 2016 khi mẹ con bà được mời lên truyền hình để nói về ý nghĩa của việc hiến tặng mô tạng, hai mẹ con lại chở nhau bằng xe máy từ Bắc Ninh lên Hà Nội rồi vội vã trở về ngay trong đêm… Nếu có ai hỏi về chuyện hiến thận đã qua, bà chỉ phẩy tay cười: “Cứ nghĩ bình thường đi, bình thường với nhau đi, bây giờ tôi chẳng đang rất khỏe là gì…”
Và nhờ cái “bình thường” của mẹ con bà Thảo, giờ đây có thêm hai gia đình được hạnh phúc vì người thân của họ được khỏe mạnh trở lại. Ở Bắc Ninh, gia đình bà Thảo cũng đang rất vui vẻ. Nỗi đau đớn của ca đại phẫu thuật đã qua đi, giờ đây trên bụng hai mẹ con là hai vết sẹo dài, như chứng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng, về việc sẵn sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân thể của mình.
Có lẽ bạn đọc nghĩ rằng đó là hai con người kì lạ, nhưng khi gặp họ và trò chuyện, chúng tôi mới thấy mẹ con bà Thảo không kì lạ chút nào, họ chỉ muốn tặng quà một cách vô tư để nhận lại một thứ hạnh phúc tinh thần nào đó mà tôi không thể nào định danh được!
(Trích Hai mẹ con cùng hiến thận, Lan Anh, Báo Tuổi trẻ, ngày 31/5/2018)
Câu 1.(1,0 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.Văn bản được kể theo ngôi kể nào?
Câu 2. (1,0 điểm): Chỉ ra lời dẫn trực tiếp được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 3. (1,0 điểm): Bằng sự hiểu biết của bản thân, hãy giải thích nghĩa của từ
“ bình thường” trong câu: Và nhờ cái “bình thường” của mẹ con bà Thảo, giờ đây có thêm hai gia đình được hạnh phúc vì người thân của họ được khoẻ mạnh trở lại.
Câu 4. (1,0 điểm): Hãy chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau:h Nỗi đau đớn của ca đại phẫu thuật đã qua đi, giờ đây trên bụng hai mẹ con là hai vết sẹo dài, như chứng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng, về việc sẵn sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân thể của mình.
Câu 5. (1,0 điểm):
Có lẽ bạn đọc nghĩ rằng đó là hai con người kì lạ, nhưng khi gặp họ và trò chuyện, chúng tôi mới thấy mẹ con bà Thảo không kì lạ chút nào, họ chỉ muốn tặng quà một cách vô tư để nhận lại một thứ hạnh phúc tinh thần nào đó mà tôi không thể nào định danh được!
Theo em, thứ hạnh phúc tinh thần mà người viết không thể nào định danh được là gì?(trình bày 3- 5 câu)
Câu 6. (1,0 điểm): Từ vấn đề đặt ra trong đoạn trích, em rút ra được thông điệp gì? (trình bày 2- 3 câu)
PHẦN VIẾT ( 4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn thơ sau:
Dẫu bây giờ bố mẹ – đôi khi
Có nặng nhẹ yêu thương và giận dỗi.
Có roi vọt khi con hư và dối
Thương yêu con đâu đồng nghĩa với chiều
Đường con đi dài rộng rất nhiều
Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng
Trời xanh đấy nhưng chẳng bao giờ
Chỉ có con mới nâng nổi chính mình.
Chẳng có gì tự đến – Hãy đinh ninh.
(Không có gì tự đến đâu con, Nguyễn Đăng Tấn, Lời ru vầng trăng, NXB Lao Động, 2000, Trang 42)
* Chú thích:
– Nguyễn Đăng Tấn là một nhà báo, một nhà thơ với phong cách thơ bình dị nhưng giàu chất triết lí, thể hiện những suy ngẫm, trăn trở về tình yêu thương, về lẽ sống.
– Bài thơ “Không có gì tự đến đâu con”, được nhà thơ Nguyễn Đăng Tấn viết tặng con là Nguyễn Đăng Tiến vào khoảng năm 1995, khi Tiến đang học lớp 3. Bài thơ được in trong tập thơ “Lời ru vầng trăng”, xuất bản năm 2000.
HƯỚNG DẪN CHẤM
ĐỀ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG HS LỚP 9 NĂM HỌC 2024-2025
Môn: Ngữ văn
PHẦN | CÂU | NỘI DUNG | ĐIỂM |
I. ĐỌC HIỂU | 1 | Phương thức biểu đạt chính: Tự sự
Ngôi kể thứ ba |
0,5điểm
0,5 điểm |
2 | Lời dẫn trực tiếp được sử dụng trong đoạn trích: “Cứ nghĩ bình thường đi, bình thường với nhau đi, bây giờ tôi chẳng đang rất khỏe là gì…” | 1,0 điểm | |
3 | Từ “ bình thường” trong câu: Và nhờ cái “ bình thường” của mẹ con bà Thảo, giờ đây có thêm hai gia đình được hạnh phúc vì người thân của họ được khoẻ mạnh trở lại. Có nghĩa là: Không có gì khác thường, không có gì đặc biệt cả. | 1,0 điểm | |
4 | Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn trên là biện pháp so sánh. Hai vết sẹo dài trên bụng hai mẹ con (bà Thảo và Hòa) được so sánh như chứng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng, về việc sẵn sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân thể của mình.
– Hiệu quả của biện pháp so sánh: + Giúp cho câu văn trở nên hấp dẫn, sinh động, gợi hình, gợi tả và tăng giá trị biểu cảm cao. + Khẳng định giá trị của những vết thương mà hai mẹ con phải chịu đựng. Hai vết sẹo ấy là bằng chứng sáng rõ nhất của tinh thần làm việc thiện, sẵn sàng cho đi một phần thân thể của mình mà không cần đáp lại. |
1,0 điểm | |
5 | Thứ hạnh phúc tinh thần mà người viết không thể nào định danh được là niềm hạnh phúc của việc cho đi, của tinh thần sẻ chia, biết sống vì người khác, biết yêu thương với những số phận bất hạnh trong cuộc đời. | 1,0 điểm | |
6 | – Thông điệp của đoạn trích là: Dù người ta không cùng máu mủ với chúng ta nhưng đừng e ngại sự giúp đỡ . Hãy giúp đỡ những người gặp khó khăn để cuộc sống và tâm hồn ta tốt đẹp và ý nghĩa hơn. | 1,0 điểm | |
II VIẾT | a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề. |
0,25 điểm | |
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Phân tích đoạn trích bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” (Nguyễn Đăng Tấn). |
0,25 điểm | ||
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau: |
3,0 điểm | ||
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
* Phân tích nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Luận điểm 1: Bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” là lời tâm tình, nhắn nhủ của người cha với đứa con yêu thương của mình. – Cha nói với con về tình cảm gia đình, mong con hiểu được tâm tình của cha mẹ. + Độ tuổi của con còn thơ trẻ, hồn nhiên, có lúc còn ham chơi “hư và dối”, chưa hiểu hết được những qui luật của cuộc sống. Vì thế, bổn phận người làm cha mẹ phải biết linh hoạt, cương nhu trong uốn nắn, dạy bảo con: “nặng nhẹ”, “yêu thương”, “roi vọt” … + Cha mẹ tin rằng con sẽ hiểu được tấm lòng và tình yêu thương của cha mẹ. Cha yêu thương con, là chỗ dựa vững chắc cho con nhưng không nuông chiều. (HS lấy dẫn chứng). – Cha nhắn nhủ: con hãy giữ vững tinh thần, ý chí và nghị lực, hãy luôn tin vào bản thân mình và không ngừng nỗ lực vươn lên. + Cha vạch rõ con đường phía trước của con “dài rộng rất nhiều” nhưng điều quan trọng là con phải biết “giữ cây vươn thẳng”, tự giác và nghiêm khắc với bản thân. Các hình ảnh ẩn dụ “Đường con đi dài rộng”, “năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng”, ‘Trời xanh chẳng bao giờ lặng” nhằm khẳng định đường đời lắm gian nan, con phải có ý chí, bản lĩnh, không được cúi đầu trước khó khăn, cám dỗ của cuộc đời. Ý thơ là lời răn dạy: Không ai có thể sống thay con, chỉ có con mới quyết định được tương lai cuộc đời của mình. + Khổ thơ cuối đặc biệt bởi chỉ có một dòng thơ ngắn kết hợp dấu gạch ngang gợi suy ngẫm về những điều cha dạy mà con cần khắc cốt ghi tâm. Từ láy “đinh ninh” như một lời trao gửi thiêng liêng của thế hệ cha anh, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc, thấm thía. (HS lấy dẫn chứng). => Qua đoạn thơ người đọc cảm nhận được tình yêu thương con sâu nặng của người cha, sự trân trọng, tin yêu của nhà thơ vào tình cảm gia đình- một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp. * Luận điểm 2: Bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” của Nguyễn Đăng Tấn còn được thể hiện qua hình thức nghệ thuật đặc sắc. + Sử dụng thể thơ tự do phù hợp với việc diễn tả những lời thủ thỉ, tâm tình và dặn dò thiết tha, sâu lắng của người cha dành cho con. +Hình ảnh bình dị, gần gũi nhưng giàu ý nghĩa biểu tượng, mang tính khái quát cao, phù hợp những suy tư, cách nhìn có chiều sâu về cuộc sống của người cha. + Ngôn ngữ trong sáng, biểu cảm, giọng điệu tha thiết, sâu lắng nhưng trang nghiêm, tự hào … + Các phép tu từ ẩn dụ, nhân hóa, điệp ngữ, từ láy… được sử dụng khéo léo, phát huy hiệu quả trong diễn đạt. |
0,5 điểm
1,5 điểm
0,5 điểm |
||
* Đánh giá, kết luận | 0,5 điểm | ||
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt. |
0,25 điểm | ||
e. Sáng tạo: Bố cục mạch lạc, lời văn sinh động, sáng tạo. | 0,25 điểm | ||
Trên đây là những định hướng chấm, trong quá trình chấm bài giáo viên có thể linh hoạt cho điểm với bài viết có sự sáng tạo, văn ngôn phù hợp. |