Phần I (3,5 điểm): Đọc-hiểu
Đọc đoạn trích
“Đố kị nghĩa là bực tức, khó chịu trước những may mắn và thành công của người khác. Trong khi người thành công luôn nhìn thấy và học hỏi những đức tính tốt đẹp của người khác thì kẻ thất bại lại không làm được điều đó. Họ không muốn nhắc đến thành công của người khác, đồng thời họ luôn tìm cách chê bai, hạ thấp người xung quanh. Họ để mặc cho lòng tỵ hiềm, thói ganh tỵ, cảm giác tự ti gặm nhấm tâm trí ngày qua ngày.
Đố kị không những khiến con người cảm thấy mệt mỏi mà còn hạn chế sự phát triển của mỗi người. Thói đố kị khiến chúng ta lãng phí thời gian và không thể tận dụng hết năng lực để đạt được điều mình mong muốn. Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình.
(George Matthew Adams, Không gì là không thể, Thu Hằng dịch, NXB tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2017, tr.44)
Câu 1 (1,0). Xét theo cấu tạo câu sau thuộc kiểu câu gì? Phân tích cấu tạo của câu đó: “Họ không muốn nhắc đến thành công của người khác, đồng thời họ luôn tìm cách chê bai, hạ thấp người xung quanh”?
Câu 2 (0,5). Theo tác giả đố kị là gì?
Câu 3 (1,0). Theo em, vì sao người có tính đố kị thường “không muốn nhắc đến thành công của người khác”?
Câu 4 (1,0). Em có đồng ý với ý kiến: “Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình” không? Vì sao?
Phần II (6,5 điểm): Viết -văn
Câu 1 (4,0). Từ nội dung đoạn trích phần Đọc – hiểu, hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về lối sống luôn sự đố kị với người khác.
Câu 2 (2,5). Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về hình ảnh nhân vật “thằng Mít” trong câu truyện dưới đây:
Thằng ‘Mít’ tóc vàng mắt xanh
TẠ TƯ VŨ
(Tóm lược: Ông bà Năm có cô con gái tên đang yêu một chàng trai người Mỹ tên Smith nhưng ông bà quen gọi là Mít, vốn là giáo viên dạy cùng trường với con gái ông. Hai người yêu nhau đã lâu lần này con gái ông quyết định dẫn người yêu về gặp ba mẹ)
Thằng Mít cao một mét chín, tóc vàng mắt xanh. Ngày nó bước vào nhà, đầu nó va vào thành cửa cái cốp, trán nó sưng một cục. Ông bà Năm ái ngại nhìn Mít, con Trang thì mặt lo lắng, lăng xăng. Thằng Mít vừa hít hà vì đau, vừa nhăn răng cười nhìn ông bà Năm. Bà Năm quýnh quáng lấy chai dầu cù là đưa cho Mít, con Trang gạt ngang: “Thôi đi má, má tìm cho con cục nước đá, chứ ai lại thoa dầu”. Thằng Mít xoa xoa trán rồi cố rặn ra ba chữ: “Không… xạo… đâu”… Ông Năm nhớ hoài bữa cơm đầu tiên của thằng Mít ở nhà ông. Khi mọi thứ vừa dọn ra bàn, con Trang bày muỗng nĩa mang theo cho thằng Mít, thằng Mít gạt ngang, nó chọn đũa. Thằng Mít ăn như chiến hạm, nhất là món canh bí đỏ thịt bằm của bà Năm nấu. Con Trang tót lên nhà trên khi ăn xong, còn thằng Mít thì ăn sạch, uống sạch, rồi cái thân hình mét chín của Mít lồm cồm dọn dẹp bàn ăn, rửa chén. Bà Năm cản thế nào Mít cũng nhất quyết làm. Ông Năm bực mình gọi con Trang, nhưng con Trang cứ vùi đầu vào màn hình laptop với cái tai nghe lủng lẳng. Ông Năm lắc đầu. Nhưng điều ông bà Năm bất ngờ nhất với Mít là chuyện khác. Đó là lúc đi ngủ, Mít nhất quyết không ngủ chung phòng với Trang, vì nó sợ ông bà Năm sẽ khó xử với hàng xóm. Dù gì thì Mít cũng chưa là chồng Trang. Mít giải thích là nó nghiên cứu kỹ văn hóa Việt Nam lắm. Ông bà Năm lại nhìn nó mỉm cười. Ông Năm cười tươi nhìn bà Năm: “Đêm nay, thằng Mít ngủ giường bà, bà thì qua giường tui nghe hông”. Con Trang mặt một đống, nó bỏ về phòng đóng cửa cái ầm.
Sáng sớm, ông Năm ngạc nhiên khi thấy mấy lồng chim của mình được đem ra treo trên nhành ổi. Sân nhà đã được quét sạch. Bà Năm dậy thì có sẵn bình trà lài đã pha sẵn. Ông bà Năm vẻ mãn nguyện, cảm giác được an hưởng tuổi già ùa về, dù ông bà biết chỉ là trong phút chốc. Thằng Mít từ phía biển chạy về, thở dốc. Nó lại rặn ra mấy chữ giải thích là đi tập thể dục sáng, và nó chúc bà Năm uống trà ngon miệng. Ông bà Năm nhìn nhau. Phòng Trang tiếng máy lạnh vẫn rì rì… Những ngày tiếp theo là những ngày vui của ông bà Năm. Thằng Mít lăng xăng chuyện trò với ông bà mỗi ngày, dù tiếng Việt của nó như tra tấn ông bà. Mít đánh cờ tướng, khề khà ly rượu đế với ông Năm, bóp vai cho bà Năm mỗi khi bà nhăn nhó vì mỏi. Mít rành hết mọi thứ trong nhà và chỉ quan tâm ông bà Năm. Đôi lúc bà Năm muốn nói chuyện với con gái, nhưng Trang cứ suốt ngày ở lì trong phòng, hoặc khi có mặt nó chỉ xí xăng xí xồ tiếng tây tiếng u với thằng Mít. Về nhà được ba ngày, hôm sau, Trang vùng vằng bỏ về thành phố một mình…
“Giờ tui mới hiểu vì sao đêm đó thằng Mít với con Trang cãi nhau rùm trời”, ông Năm đưa lá thư cho bà Năm đọc. “Con Trang dẫn thằng Mít về nhà 3 ngày, rồi sau đó tụi nó sẽ vào khách sạn trong phố ở 4 ngày nữa để chơi hè. Nhưng hết 3 ngày thằng Mít đổi ý, nó muốn ở thêm 4 ngày nữa. Con Trang hổng chịu”. Ông Năm nhớ cái đêm cuối cùng ông thấy thằng Mít ngồi rít thuốc đầu hè. Ông ra ngồi với nó, cả hai chuyện trò. Mít nói lung tung, nhưng ông Năm cũng hiểu nó là thằng mồ côi bên Mỹ. Mít muốn gọi ông bà là ba, mẹ nhưng nó không dám. Lúc rời đi, Mít ôm ông bà Năm thật chặt. Nó mua bàn cờ tướng bằng gỗ cho ông Năm và một thùng trà lài cho bà Năm. Trong thư, Mít nói sẽ suy nghĩ lại quan hệ của nó và Trang. Mít xin phép gọi ông bà trong thư sau bằng ba mẹ, dù Mít có chia tay con Trang hay không. Ông Năm nhìn bâng quơ lên bầu trời đã sâm sẩm tối. Trang lại không gọi về đã mấy ngày nay. Bà Năm nhìn ông Năm khẽ khàng: “Dù sao con gái cũng về thăm ông rồi”. Ông Năm thở dài: “Tui nhớ thằng Mít”.
Gợi ý
Câu | Đáp án | Điểm |
1 | -Xét theo cấu tạo đó là câu ghép
-Họ / không muốn nhắc đến thành công của người khác, CN1 VN1 (đồng thời) họ / luôn tìm cách chê bai, hạ thấp người xung quanh”? CN2 VN2 |
0,5
0,5 |
2 | -Theo tác giả đố kị nghĩa là bực tức, khó chịu trước những may mắn và thành công của người khác. | 0,5 |
3 | Người có tính đố kị thường “không muốn nhắc đến thành công của người khác” vì:
+ Họ không chịu thừa nhận thành công của người khác + Họ không muốn người khác thành công hơn mình |
0,5 0,5 |
4 | Gợi ý: Đồng ý
– Lý giải: – Ganh tị với người khác khiến cho bản thân tốn nhiều thời gian để khó chịu, mặc cảm, tự tin, – Đố kị khiến con người ngày càng kém cỏi, lãng phí thời gian để hoàn thiện bản thân, tích lũy những kiến thức cần thiết cho sự phát triển bản thân của mình, |
0,25
0,75 |
Phần II (6,5 điểm)
Câu 1 (4,0)
Gợi ý
*Yêu cầu về hình thức: Bài văn nghị luận
*Yêu cầu về nội dung: nghị luận suy nghĩ của em về lối sống luôn có sự đố kị với người khác
*Dàn ý:
Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận (lối sống luôn có sự đố kị với người khác)
Cuộc đời của con người giống như một cuốn nhật ký. Mỗi ngày chúng ta lại viết nên những trang giấy nhiều điều: có niềm vui, cũng có nỗi buồn, có thành công, cũng có thất bại. Trên hành trình để hoàn thiện cuốn nhật kí cho riêng mình, chúng ta cần phải nhận ra được bài học từ vẻ đẹp của lối sống không có sự đố kị. Để rồi đến khi khép trang nhật kí lại, mỗi người đều cảm thấy mãn nguyện, tự hào về những năm tháng mình đã không sống hoài, sống phí…
Thân bài: Trình bày cụ thể: Suy nghĩ của em về vẻ đẹp của lối sống không có sự đố kị
– Giải thích: Đố kị nghĩa là bực tức, khó chịu trước những may mắn và thành công của người khác. Đố kị là sự ghen ghét, không công nhận, thậm chí có suy nghĩ, hành động bài trừ, chê bai, không thừa nhận đối với những thành tựu của người khác.
– Biểu hiện:
+Ai trong cuộc sống này cũng đôi khi so sánh, chạnh lòng trước những may mắn mà người khác có được và tủi thân cho những điều mà mình phải gánh chịu. Song, nếu đứng trước điều tốt đẹp mà người khác có ta hằn học, ghen ghét, thù hận và tìm mọi cách để hất bỏ thành quả của họ thì đó chính là hành động đầy đố kị không nên có ở cuộc đời này.
+Biểu hiện của sự đố kị còn là trong bất cứ việc gì, trong bất cứ điều gì ta cũng không muốn họ hơn mình, vượt qua mình, muốn mọi người phải thấp kém, bất hạnh hơn mình thì mới cảm thấy thoả mãn và thích thú.
-Tác động:
Tiêu cực:
+ Một người sống đố kị thì sẽ không có ý chí phấn đấu. Họ chỉ muốn hạ thấp, hãm hại người khác để thỏa lòng ích kỷ tăng lên. Kẻ đố kị luôn chán nản, bỏ cuộc dẫn đến liên tục thất bại. Từ đó thói ghen ghét, đố kị làm cho con người trở nên ti tiện, nhỏ nhen, tầm thường, ích kỷ, tự hạ thấp giá trị bản thân mình và từ đó sẽ bị mọi người coi thương, xa lánh, ghét bỏ
+ Người có lối sống không có sự đố kị là người có đức hi sinh, có đạo đức, có ý chí, lòng quả cảm, sống trung thực, có tấm lòng vị tha, khoan dung, độ lượng… khiến những người xung quanh tin tưởng và yên mến.
+ Người có lối sống không có sự đố kị sẽ tạo nên sức mạnh làm thay đổi bộ mặt xã hội, tất cả đều hướng thiện, hướng về chân lí, lẽ phải, cái tốt, cái đẹp; làm cho cái xấu, cái ác không có chỗ nương thân…
Tích cực:
+ Lối sống không có sự đố kị là người có lối sống lành mạnh, phong phú; sống có lý tưởng, sống phù hợp với thời đại và hoàn cảnh sẽ khiến bản thân ta luôn cảm thấy hạnh phúc, an nhiên và bình an nơi tâm hồn.
+ Sống đố kị sẽ làm nảy sinh nhiều trạng thái tâm lý tiêu cực, khiến cho bản thân người có lòng đố kị luôn căng thẳng, bức bối, không thoải mái, thậm chí là đau đớn. Bởi kẻ đố kị không chấp nhận thực tế người khác hơn mình. Vì vậy, khi ta sống không đố kị là lúc bản thân luôn nhìn cuộc sống bằng ánh mắt tích cực, suy nghĩ lạc quan và tốt đẹp.
+ Người sống không có sự đố kị sẽ được mọi người yêu quý, trân trọng, ngợi ca và luôn tận tình giúp đỡ khi ta khó khăn, gặp trở ngại trên hành trình mình sẽ đi, đang đi…
+Lối sống không có sự đố kị sẽ giúp mọi người xích lại gần nhau hơn vì thế mà xã hội sẽ ngày càng trở nên tốt đẹp.
+ Dẫn chứng: Người anh trong truyện “Cây khế” vì tham lam đố kị mà tự hại chính mình ngược lại, người em sống vô tư, rộng lượng thì lại có kết quả tốt đẹp
– Đối lập-mở rộng: Trong xã hội vẫn còn có nhiều người sống với tấm lòng chân thành, yêu thương rộng mở; biết chấp nhận cuộc sống bản thân và hoàn thiện nó; không tranh đua, ghen ghét, nhòm ngó cuộc sống của người khác,… Những người này sẽ luôn thấy được vẻ đẹp của cuộc đời, ý nghĩa của cuộc sống và là tấm gương sáng để chúng ta học tập và noi theo, đó chính là cái đẹp cao cả của một cuộc sống không có lòng đố kị.
– Bài học:
+ Trong quá trình học tập và rèn luyện để hoàn thiện nhân cách của mình, chúng ta phải dũng cảm, phải kiên quyết loại bỏ thói ghen tị: “Đừng để cho con rắn ghen tị luồn vào trong tim”
+Hãy coi thành công của người khác là tấm gương để chúng ta học tập, noi theo, phấn đấu.
+Luôn rèn luyện bản thân mình theo lối sống nhân ái, trân trọng và ca ngợi những con người sống ích kỉ, luôn nghĩ cho người khác trong cuộc sống.
Kết bài: Khẳng định lại vấn đề +Thông điệp
Không ai có quyền hưởng thụ hạnh phúc mà không tạo ra nó, thành công không đến với ta một cách tự nhiên. Bạn phải vượt qua muôn vàn thử thách, thất bại trên con đường thành công đó. Ý nghĩa cuộc sống chẳng phải được đo bằng thời gian cuộc đời, mà đó là những giá trị bạn làm nên cho bản thân và cống hiển cho xã hội. Vì vậy hãy học cách sống bằng một trái tim không đố kị để ngày càng sống tốt hơn.
Câu 2 (2,5):
* Hình thức: Đoạn văn nghị luận tác phẩm truyện
* Nội dung: Phân tích hình ảnh nhân vật “Thằng Mít” trong đoạn trích
*Dàn ý:
Mở đoạn: Giới thiệu tác giả+ tác phẩm + khái quát chung về nhân vật
Thân bài: Làm rõ nội dung và nghệ thuật trong việc xây dựng hình ảnh nhân vật
Chia bố cục theo cốt truyện, bám vào đặc điểm của nhân vật để phân tích
Ý 1: Giới thiệu khát quát về nhân vật:
-Ngoại hình: “cao một mét chín, tóc vàng mắt xanh”==> Có ngoại hình đặc trưng của người phương Tây, đặc biệt với những người xung quanh vì thằng Mít vốn là người nước ngoài.
-Hoàn cảnh: “nó là thằng mồ côi bên Mỹ”, là người yêu của Trang con gái ông Năm==> Thiếu thốn tình yêu thương của người thân, là đứa trẻ tội nghiệp, chỉ là người mới quen biết, không máu mủ thân thích với ông bà Năm
==>Hoàn cảnh ấy không tạo ra rào mà tạo nên những đặc điểm rất đặc biệt, phẩm chất đáng quý của thằng Mít, khi được ông bà gọi ngay từ đầu bằng cái tên vô cùng dân dã.
Ý 2: Đặc điểm của nhân vật thằng “Mít”
-Tính cách và hành động:
+Khi mới gặp dù va vào cửa nhưng thằng Mít “vừa hít hà vì đau, vừa nhăn răng cười nhìn ông bà Năm”, “xoa xoa trán rồi cố rặn ra ba chữ: “Không… xạo… đâu”…”, “lăng xăng chuyện trò với ông bà mỗi ngày, dù tiếng Việt của nó như tra tấn ông bà” ==> Thằng Mít có tính cách thân thiện, dễ gần và hòa đồng. Anh ta cố gắng nói tiếng Việt dù không thạo, điều này cho thấy sự nỗ lực để hoà nhập vào gia đình và văn hóa của bạn gái.
+ “Con Trang bày muỗng nĩa mang theo cho thằng Mít, thằng Mít gạt ngang, nó chọn đũa”, “ăn như chiến hạm, nhất là món canh bí đỏ thịt bằm của bà Năm nấu”, “ăn sạch, uống sạch”, rồi “lồm cồm dọn dẹp bàn ăn, rửa chén”==> Vô tư, hồn nhiên, dễ mến và coi những người mới gặp như ruột thịt từ lấu, là con người có sự tôn trọng và yêu thích văn hóa Việt, coi trọng những đặc điểm riêng trong vùng đất trong phải quê hương, xứ sở của mình.
+ Mít luôn chủ động giúp ông bà Năm công việc như “Lồng chim của mình được đem ra treo trên nhành ổi”, “Sân nhà đã được quét sạch”, “bình trà lài đã pha sẵn”, “đánh cờ tướng, khề khà ly rượu đế với ông Năm” và chủ động “bóp vai cho bà Năm mỗi khi bà nhăn nhó vì mỏi” ==> Dường như bao nhiêu tình yêu thương dành cho cha mẹ không làm được vì là trẻ mồ côi thằng Mít gửi hết quan tâm đặc biệt đến ông bà Năm để cảm nhân được hơi ấm gia đình. Những hành động này không chỉ là sự biết ơn mà còn thể hiện sự yêu mến và tôn trọng đối với bố mẹ của bạn gái==> Con người nhân hậu, thật thà, biết quan tâm và hiểu tâm lí người già.
==>Nhân vật hiện lên là người ấm áp, hiểu biết, thân thiện, hơn hết đây là hình tượng con người trẻ tuổi nhưng có những hành động trưởng thành, đáng tin.
-Quan điểm và suy nghĩ:
+Dù sống trong môi trường phương Tây rất thoáng về tư tưởng nhưng “Mít nhất quyết không ngủ chung phòng với Trang, vì nó sợ ông bà Năm sẽ khó xử với hàng xóm”==>Tôn trọng phong tục tập quán của Việt Nam, biết đặt mình vào vị trí người khác để thấu hiểu và suy nghĩ giúp họ.
+ Dù chỉ mới gặp gỡ ít ngày nhưng “muốn gọi ông bà là ba, mẹ”, “nói sẽ suy nghĩ lại quan hệ của nó và Trang” song “xin phép gọi ông bà trong thư sau bằng ba mẹ” ==>T hể hiện sự khao khát về tình cảm gia đình, đặc biệt khi anh ta là người mồ côi ở Mỹ, điều này thể hiện sự chân thành và mong muốn gắn bó lâu dài. Hơn hết còn là con người sống có tình nghĩa, suy nghĩ sâu sắc, tình cảm.
+ Trước khi về quê Mít và Trang thoả thuận chỉ ở nhà mấy ngày nhưng “hết 3 ngày thằng Mít đổi ý, nó muốn ở thêm 4 ngày nữa” ==> Dành tình cảm cho Trang rất sâu sắc, nhưng có mâu thuẫn khi Mít muốn ở thêm với ông bà Năm bởi trâ trọng hạnh phúc gia đình nhỏ bé, muốn cảm nhận sự ấm áp của hơi ấm trong vòng tay cha mẹ, đó cũng là cách nghĩ rất đặc biệt và hiếm hoi của những người trẻ.
==>Mít không chỉ yêu Trang mà còn rất trân trọng và yêu quý ông bà Năm, điều này khiến ông Năm và bà Năm cảm thấy vui vẻ và an ủi khi Mít rời đi, coi Mít như đứa con mà mình thương nhớ, chính tình cảm chân thành của Mít đã chinh phục và neo đậu mãi nới trái tim hai con người đã ở tuổi xế chiều khao khát được quan tâm từ con cháu.
Kết đoạn: Đánh giá về nội dung và nghệ thuật:
+Nội dung: thằng Mít là một nhân vật thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự hồn nhiên, chân thành và sự tôn trọng đối với văn hóa khác biệt, là một minh chứng cho thấy tình yêu và sự hiểu biết văn hóa có thể vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ và tập quán, tạo nên những mối quan hệ đẹp và ý nghĩa.
+Nghệ thuật: ngôn ngữ gần gũi, giản dị, các chi tiết giúp người đọc dễ hình dung và cảm nhận vẻ đẹp bên trong của nhân vật với những điều đời thường, dung dị, tình huống truyện nhẹ nhàng xen lẫn chút hài hứa nhưng cũng xúc động và đẹp đẽ.