M. Gorki: “Nhà văn là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng chính người đọc tạo nên số phận cho nó”
Văn chương nghệ thuật muôn đời đều xoay quanh ba trục: tác giả – tác phẩm – bạn đọc để có thể “ không thừa nhận cái chết” (Sêđrin). Nhắc đến tiếp nhận văn học là nhắc đến những câu hỏi hoài thai muôn đời chưa lời đáp, là nhắc đến những dấu chấm lửng mà qua đó ta thấy cả một đời thảo mộc. “Nhà văn là người sáng tạo tác phẩm” có nghĩa là anh đã hoàn thành trách nhiệm công dân, cái duyên bút mực mà trời ban tặng để phơi trải lòng mình, để tô vẽ lên bức tranh của chính anh màu hiện thực. Nhưng tác phẩm ấy sẽ có nghĩa lý chi khi chỉ nằm trong vòng “ấn tượng chủ quan” mà không đi vào đời sống phong phú của bạn đọc? Bởi vậy nên ‘người đọc tạo nên số phận cho tác phẩm” có nghĩa là vai trò của bạn đọc trong tiếp nhận văn học cũng quan quan trọng hệt như nhà văn trong quá trình sáng tạo.
“Văn học và cuộc đời là hai vòng tròn đồng tâm”, văn học xuất phát từ cuộc đời như những mầm cây lớn lên trong đất mẹ, càng đào sâu càng hút được nhựa sống tràn trề. Nhà văn như con ong cần mẫn, bay một vòng dài chỉ để chắt lọc những giọt mật thơm ngon rót vào trang anh viết, rồi lại trả mật về với đất mẹ thân thương. Nói như nhà văn Chế Lan Viên:
“Rồi tác phẩm rời anh như con thuyền rời bếnSống cuộc đời riêng, anh không dự kiến.”
Bạn đọc khi ấy là những người thợ ham muốn tìm thấy mật ngọt ong để lại, uống tinh hoa rồi trả lại cho ong. Mối quan hệ ấy cứ tuần hoàn chẳng điểm dừng bất tận bởi xét cho cùng, đích đến của độc giả và tác giả đều là những triết lý nhân sinh, những bài học sâu sắc đã tiếp nhận qua quá trình thị hiếu văn chương chân chính muôn đời.
Đặt bút viết một tác phẩm, có khi anh chẳng thể xác định được điểm dừng bởi nhân vật dưới ngòi bút kia đều có sức sống riêng, đôi khi nổi loạn vượt ngoài tầm kiểm soát, để rồi khi đặt dấu chấm kết thúc thiên truyện, chính nhà văn cũng bất ngờ bởi những diễn biến đã qua. Bạn đọc khi ấy là người giúp nhân vật tái sinh, cho chúng một sự sống mới, một cách hiểu, cách cảm, cách nghĩ chẳng trùng lặp với bất kỳ ai, nói đúng hơn là “khả năng trở thành kẻ khác”. Nhà văn Kim Lân khi viết truyện ngắn “Vợ Nhặt” khắc họa anh cu Tràng ngờ nghệch để nhằm tái hiện lại được sự sống tiềm tàng trong gian khổ, mất mát hy sinh, thể hiện niềm tin vào Cách Mạng, vào tình người ấm áp. Nhưng khi đọc tác phẩm, lại có người thấy trong nét ngờ nghệch đó là cả một tâm hồn rộng lớn, một lòng hiếu thảo với bà cụ Tứ sâu sắc mà sau này, đến chính nhà văn đọc lại cũng bất ngờ. Văn chương sẽ ra sao nếu nó hoàn toàn ở trong mắt nhà văn, không thoát thai mà vào đời sống của nhân loại? Không, nếu như vậy thì sẽ chẳng còn văn chương chân chính nữa.
Văn học nằm ngoài quy luật băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” (Sedrin) và điều làm nên sức sống muôn đơi ấy là độc giả. Chỉ khi nào bạn đọc còn thắc mắc, còn băn khoăn thì khi ấy văn học còn khả năng tái sinh. Nhà văn khi đặt dấu chấm hết một bài thơ, một tác phẩm có nghĩa là anh đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Khi ấy, văn học sẽ rẽ sâu, thâm nhập vào đời sống độc giả. Mỗi người là một cá thể riêng, khác biệt nên việc văn chương đa nghĩa là điều khó tránh khỏi. Càng nhiều độc giả, càng nhiều câu câu hỏi đặt ra thì tác phẩm ấy còn giá trị kiếm tìm lời giải đáp phù hợp nhất. Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, những người chịu sự ảnh hưởng của Nho Giáo, Tam Đạo cho rằng Kiều là “ hộp son thếp vàng nhưng đựng chất kịch độc”, rằng “Đàn ông chớ kể Phan Trần/ Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Nhưng những nhà thơ mới, những người được tiếp thu sự tiến bộ của giáo dục lại hết mực thương xót, trân trọng “Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc” (Chế Lan Viên), hay như Phạm Quỳnh đã dõng dạc khẳng định “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Cùng một kiểu nhân vật, một “hạt bụi vàng” nhưng có người nhìn thấy một bông hồng vàng tươi thắm, lại có người chỉ thấy lấp lánh dưới lớp bụi mù che mắt nhân sinh.
Nhắc đến tiếp nhận là nhắc đến giá trị của văn học. Văn chương chân chính chỉ dung nạp những cây bút biết khơi nguồn đào sâu nhưng lại dễ dàng chấp nhận bất cứ bạn đọc nào. Nói như vậy không phải văn chương dễ dãi bởi bất cứ ai khi đến với một một tác phẩm đều mong có thể thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ thẩm mĩ, nhận thức và giáo dục tự nguyện tự giác. Văn học không ép buộc, gượng ép bất kỳ ai bởi “như cây thẳng quá chim không về”, văn chương là thế giới của nhiều người nhiều số phận khác trên mọi nẻo đường nhà văn đã đi qua. Vậy nên, giá trị của văn học nằm ở cái “đa”, ở những câu hỏi liên tục được truy vấn lại, rằng “cô chu nhất hệ cố viên tâm” trong thơ Đỗ Phủ là con thuyền nhỏ bé nào đó buộc giữa dòng hay tấm lòng một người con xa xứ? Rằng còn một cuộc sống nào tốt hơn cho Thảo, cho Kiên, cho những người đàn bà làng Đông – những con người sót lại thời hậu chiến. Bạn đọc không nhất thiết phải đưa ra một cách hiểu mới, một định hướng khác cho văn chương, cũng không bắt buộc phải giúp nhà văn viết tiếp trên những bản thảo hãy còn dang dở. Tuy nhiên, bạn đọc cần cho văn chương, cho nhà văn để có thể cùng mình “ tìm hồn đồng điệu” để đồng sáng tạo. Họ đều là những Thị Nở, những Đan Thiềm trên văn đàn, những người sở hữu thứ “bình thường trong một đời sống bất thường”, mang trái tim đa cảm, trân quý cái đẹp để khiến văn học có hai chữ “muôn đời”.
Xóm trọ Văn chương – Kể chuyện tứ phương!