Những dẫn chứng đặc sắc cho chủ đề TIẾP NHẬN VĂN HỌC
Dẫn chứng số 1: Bàn về nhân vật Don Quijote trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn M. Cervantes và tác phẩm “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần – 1 trong tứ đại danh tác của Trung Quốc
Bàn về nhân vật Don Quijote: Người Tây Ban Nha gọi chàng là kẻ điên rồ, người Pháp gọi là chú hề đáng thương, đến chủ nghĩa lãng mạn gọi Don Quijote là người anh hùng còn sót lại, chủ nghĩa hiện thực lại coi là biểu tượng của sự suy vi một thời phong kiến đã qua.
– Bàn về “Hồng lâu mộng”: Nếu đọc ―Hồng lâu mộng” trong lúc trai trẻ, làm sao mà không cảm thấy thú vị trước hết đối với cảnh vui chơi nô đùa giữa các công tử, tiểu thư với những a hoàn xinh đẹp. Nhưng khi đã nếm mùi của trường tình biển ái, thì sẽ không khỏi xót xa trước bi kịch của Bảo – Lâm. Lúc về già, đã trải nghiệm biết bao trầm luân cay đắng của cuộc đời, đọc lại ― Hồng lâu mộng ”, mới ngấm hết bao nỗi nhân tình thế thái, cuộc thịnh suy trong biển đời khổ ải.
=> Vậy rõ ràng, những môi trường văn hoá khác nhau, năng lực, thị hiếu, sở thích khác nhau tạo ra những “phạm trù hiểu” không cùng hướng. Ta coi tác phẩm như cái đài nhiều dải tần, ai thích nghe sóng nào thì nghe, nhưng phải bắt đúng dải sóng nếu không chỉ có tạp âm thôi. Lịch sử văn học, xét đến cùng, là lịch sử tiếp nhận văn học.
Dẫn chứng số 2: Bàn về chữ “lưỡng” trong bài thơ “Vãn cảnh” – Hồ Chí Minh
Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ,
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình;
Chữ “lưỡng” là từ chìa khoá để khai mở bài thơ. Xuân Diệu coi “lưỡng” ở đây là hai sự vô tình khép kín một đời hoa, còn Trần Đình Sử coi “lưỡng” là phó từ, còn chủ ngữ hàm ẩn”quyết định nghĩa” bài thơ là người tù Hồ Chí Minh, tự trách mình vô tình. Thú vị nhất là Nguyễn Khắc Phi khi đưa ra quan niệm “lưỡng vô tình” là sự trôi chảy liên tục, bất biến của thời gian đã làm cho người tù bất bình.
Dẫn chứng số 3: Bàn về tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử
Trong các nhà Thơ mới, Hàn Mặc Tử phải bất hạnh nhất, lạ nhất và phức tạp nhất. Vì thế cũng bí ẩn nhất. Có ai định tranh chấp với Tử những cái “nhất” ấy không? Ví Tử với ngôi sao chổi, Chế Lan Viên đã thật có lí.
Chỉ riêng với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, đến nay đã có bao cuộc thăm dò, thám hiểm. Người si mê thấy đó chỉ là tỏ tình (với Hoàng Cúc). Người vội vàng bảo rằng tả cảnh (cảnh Huế và người Huế). Người khôn ngoan thì làm một gạch nối: tình yêu – tình quê. Kẻ bảo hướng ngoại. Người khăng khăng hướng nội. Lắm người dựa hẳn vào mối tình Hoàng Cúc như một bảo bối để tham chiến. Người khác lại dẹp béng mảng tiểu sử với cái xuất xứ không ít quan trọng ấy sang bên để chỉ đột phá vào văn bản không thôi. Người khác nữa lại hoàn toàn “dùng ngoài hiểu trong, dùng chung hiểu riêng”, ví như dùng lí sự chung chung về cái tôi lãng mạn và tâm trạng lãng mạn để áp đặt vào một trường hợp rất riêng này, v.v…
Ngay một câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” cũng gây tranh cãi. Điều khiến người ta tranh cãi lại chính là nghĩa của câu thơ, đặc biệt của cụm từ “mặt chữ điền” đó là gì vậy? Một mảnh vườn vuông vức? Một khuôn mặt nữ xinh xắn thấp thoáng sau cành trúc khi chàng trai ghé nhìn vào mảnh vườn nhà nàng? (Ý này nhiều người không đồng tình, vì trong tâm thức người Việt, “mặt chữ điền” là cụm từ dành để mô tả khuôn mặt nam nhi). Hay thầy Chu Văn Sơn lại cho rằng đây là một khuôn mặt chữ điền của người trai từ phương xa hình dung mình được trở về Vỹ Dạ, nhìn ngắm vườn nhà ai qua cành lá trúc che ngang…
Dẫn chứng số 4: Về hình ảnh “giọt long lanh rơi” trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
Hình ảnh “giọt long lanh rơi” trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đã gọi lên biết bao suy tưởng ở người đọc muôn thế hệ. Có người cho rằng đó là giọt sương mai còn động lại trên lá. Có người hiểu đó là giọt mưa xuân dịu ngọt của đất trời. Có người lại suy tưởng đó là giọt mật thơm, kết tinh từ tình yêu cuộc sống nồng nàn thiết tha trong lòng tác giả, mãnh liệt đến mức có thể chảy vào thơ, hiện hình trên ngôn ngữ. Hiểu hình ảnh “giọt long lanh rơi” ấy theo nghĩa nào là tùy thuộc vào tâm cảm của mỗi người. Điều quan trọng là bắt được nguồn mạch của nhà thơ, soi chiếu vào nội cảm của chính mình để có thể đồng điệu, giao hòa với nhà thơ thông qua ngôn ngữ.
Người Trung Quốc xưa từng cho rằng tác phẩm tồn tại trong lòng của người tri kỉ chứ không trên trang giấy; vì thế việc viết văn là việc của tấm lòng. Xét đến cùng, tiếp nhận văn học là một cách tác phẩm tái sinh trong lòng bạn đọc. Văn bản kết thúc nhưng dư âm của nó thì còn vang vọng mãi. Nó đòi hỏi người đọc phải tự nâng mình lên, trau dồi tri thức, hiểu biết để biến vốn sống thành chất sống mới có thể đồng hành cùng nhà văn trong việc sáng tạo tác phẩm chân chính.
Nguồn: Xóm Trọ Văn Chương