📝 Tổng hợp đề kiểm tra Cuối học kì 1 môn Ngữ văn từ lớp 6 → 12
Bộ sưu tập đề kiểm tra Cuối học kì 1 môn Ngữ văn cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12. Mỗi đề đều kèm đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết giúp học sinh ôn luyện hiệu quả trước kỳ thi.
🧠 Cập nhật liên tục – giúp học sinh ôn tập vững vàng trước kỳ thi cuối học kì 1.
PHẦN ĐỌC HIỂU (6.0 điểm)
Đọc văn bản sau:
Một nhành cây đập khẽ vào cửa sổ
Một nhành cây ướt đẫm mưa rào
Đêm bên bờ biển, cát và sao
Gian nhà trọ, ngọn đèn vàng bé nhỏ
Đêm đầu tiên tôi trở về quê cũ
Chưa thấy mặt người thân, chưa gặp được xóm làng
Chỉ ánh sao, mùi cỏ cháy hun thuyền
Một nhành cây đập khẽ vào cửa sổ
Có thể là ngọn gió
Lá rào rào nước rơi
Hay một cánh chim bay
Thuỷ triều lớn đang ngập tràn khắp bãi
Những tảng đá vôi trắng tinh như muối
Những tảng đá xanh lấp lánh rong mềm
Tôi mở cửa ra vườn
Bốn bề xào xạc
Từ cành thấp lên cành cao
Từ cây này sang cây khác
Tiếng thì thầm lan mãi đến xa xôi
Có lẽ nào cây đã nhận ra tôi?
Chân tôi bước trên đất và trên cỏ
Tôi nghe tiếng chim đêm, tôi chạm vào tảng đá
Lòng bỗng xạc xào run rẩy như cây
Trời sáng mau đi cho tôi gặp mặt người
Hai mươi năm hai mươi năm mong nhớ
Hai mươi năm tôi mới có một khung cửa sổ
Để mở ra là gặp quê nhà
Ôi mùi thơm của những bông hoa
Những nhành cây hiền dịu
Những nhành cây như bàn tay trìu mến
Của quê nhà đang ngả xuống vai tôi
Nước mắt hoà với giọt mưa vui
Gà gáy sáng, vòm xanh nắng dậy!
Đà Nẵng, 1975
(Đêm trở về– Xuân Quỳnh, Tuyển tập Thơ Xuân Quỳnh, Kiều Văn; NXB Đồng Nai, 2002)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Liệt kê những từ ngữ, hình ảnh gợi ý niệm thời gian, không gian trong khổ thơ đầu.
Câu 2. Chỉ ra yếu tố tượng trưng được sử dụng trong những dòng thơ sau: Tôi mở cửa ra vườn/ Bốn bề xào xạc/ Từ cành thấp lên cành cao/ Từ cây này sang cây khác/ Tiếng thì thầm lan mãi đến xa xôi/ Có lẽ nào cây đã nhận ra tôi?
Câu 3. Xác định cấu tứ của bài thơ.
Câu 4. Vì sao có thể khẳng định bài thơ trên được viết theo phong cách lãng mạn?
Câu 5. Những suy cảm của tác giả trong bài thơ đã gợi thức ở anh/chị tình cảm gì với quê nhà?
PHẦN VIẾT (14.0 điểm)
Câu 1 (4.0 điểm).
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200) chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị về thông điệp được gợi ra từ câu nói sau.
Nếu anh muốn pha một tách trà nóng, trước hết anh phải đổ đi trà nguội trong chiếc tách ấy.
(Dẫn theo Spencer Johnson, Yes or No – Những quyết định thay đổi cuộc sống, NXB Tổng hợp TP. HCM, 2005)
Câu 2 (10.0 điểm)
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư chia sẻ: Tôi bắt đầu tin văn chương cũng có lửa làm tan chảy những bức tường thép mà mỗi người tự dựng lên; văn chương cũng là băng, gắn kết những ốc – đảo – người thành một khối, văn chương cũng là nước, dịu dàng mà mãnh liệt vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ…”
Anh/Chị hiểu như thế nào về nhận định trên? Hãy làm sáng tỏ nhận định qua truyện ngắn Người gánh nước thuê của tác giả Võ Thị Hảo.
NGƯỜI GÁNH NƯỚC THUÊ
Chẳng ai biết lai lịch của bà, chỉ biết tên bà là Diễm. Diễm là đẹp, là diễm lệ. Ngoài vẻ đẹp, còn mang vẻ sang. Có ai gọi một củ khoai là diễm lệ đâu. Hẳn bố mẹ xưa đặt tên cho con cũng thầm ao ước sao cho con vừa đẹp lại vừa khỏi lầm than. Nhưng trông bà cả một sự nhạo báng cái mong ước đó.
Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo, gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng. Chiếc đòn gánh không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một thứ nghiệp chướng. Chiếc đòn gánh của bà cũng thật đặc biệt. Nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng đã nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của nó vậy. Nó đã tồn tại cùng bà không biết tự bao giờ. Nó được đẽo gọt từ một thân tre cong hằn dấu vết của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón đợi đôi vai còm cõi của bà Diễm mà thôi. Nó và chủ nhân của nó hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh, hợp thành biểu tượng của một thân cây vừa mới ra đời đã bị gió mưa vùi dập. Cuối hai đầu đòn gánh là đôi thùng đầy nước lắc lư theo những bước chân không đều của bà Diễm và để lại những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi. Những lúc đôi vai được rảnh rang, đôi môi bà lại lẩm nhẩm những câu không đầu không cuối. Bà đi và nói như người lẩn thẩn, nhưng những cử chỉ của bà vẫn chính xác một cách kỳ lạ. Đến máy nước bao giờ bà cũng đi sát mép đường bên phải và lặng lẽ đợi đến lượt mình, không xin xỏ, không tranh giành.
(Lược dẫn: Khi con đường quốc lộ 2 chiều được mở, nhiều hàng quán mọc lên, cần thêm người gánh nước thuê, ông Tiếu xuất hiện)
Một lần bà Diễm bị trượt chân ngã trẹo đầu gối, ông Tiếu vội dìu bà về túp lều của bà rồi lo cơm cháo thuốc thang. Thuốc chỉ có nắm lá láng hơ nóng, chườm bóp. Cơm sang lắm cũng chỉ miếng đậu luộc chấm mắm tôm.
Bà Diễm rưng rưng: “Vậy chứ nhà ông ở đâu?” Vẫn với nụ cười muôn thuở, ông Tiếu đáp: “ở góc chợ Cầu Giấy”. “Vậy chứ lúc mưa gió ông làm sao?” “Thì nép dưới hiên của nhà nào đó cho qua”.
Bà Diễm khóc ròng: “Thôi, ông về đây mà ở cùng tôi. Tôi và ông cũng sắp xuống lỗ rồi, chắc chẳng ai dị nghị gì đâu. Ông ơi, hai cái cây đã bị đánh bật hết rễ, biết tựa vào nhau để đỡ đần thì sẽ lâu đổ hơn”.
Ông Tiếu nhìn xuống đầu ngón chân của mình, không nói gì, nhưng lần đầu tiên nụ cười hóa đá của ông biến mất. Rồi từ đó trong túp lều bên bờ ao, có hai bóng già lọ mọ sớm hôm. Bà Diễm cũng bớt lẩm nhẩm một mình.
Nhưng một hôm ông Tiếu phải trở về góc chợ cũ để tìm mấy cái quần áo rách và cái chăn cũ nát. Gió thu đã se sắt lạnh bên bờ ao. “Làng” của ông Tiếu, đó là góc chợ với đám người rách rưới lam lũ, lang thang không nhà do nhiều hoàn cảnh xui khiến nên. Họ bắc những viên gạch vỡ làm bếp, và lấy những mảnh báo cũ và ni lông rách treo lên làm buồng. Lâu không thấy ông, họ xúm lại hỏi ông đi đâu, ở đâu? Ông ấp úng. Họ càng trêu già, vì biết ông đang ở trong túp lều của bà Diễm. Một thằng lỏi con kiếm đâu ra cây gậy, lấy dây chuối buộc hai viên gạch vào hai đầu vờ làm thùng gánh nước rồi nhăn nhó, còng lưng làm bộ bà Diễm đang gánh nước cạnh ông Tiếu. Cả đám ré lên cười như hóa dại. Những người đi chợ thấy ồn ã cũng đứng lại xem. Được thể, chúng càng làm nhiều trò, diễn cảnh ông Tiếu chân thấp chân cao khoác tay bà Diễm đi chơi công viên. Mọi người tha hồ đắc chí. Chả mấy phen được bữa cười vỡ bụng như hôm nay. Rồi họ sẽ trở thành người kể chuyện có duyên nhất trần đời khi kể lại cho người khác nghe chuyện này. Chỉ có ông Tiếu là đứng lặng phắc không nói được câu nào. Lát sau, vứt lăn lóc bọc quần áo rách, ông lùi lũi trở về túp lều cạnh bờ ao của bà Diễm. Qua dãy nhà gánh nước thuê, vài đứa trẻ lêu lỏng thấy ông đã reo lên:
– A bồ bà Diễm. Đẹp đôi như Chí Phèo và Thị Nở ấy chúng mày ơi.
Về đến lều, ông nằm vật ra giường, không ăn uống. Hôm sau ông lên cơn sốt. Bà Diễm hết lòng săn sóc thuốc thang nhưng vô ích. Lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, ông gọi bà đến bên, lần tay vào mụn vá lớn sát ngực lấy ra một tấm ảnh đã ố vàng và một trăm đồng bạc gói kỹ tự bao giờ trong túi ni lông. Trong ảnh là một bé gái tóc tơ xấp xõa, đôi mắt tròn đen mở to ngây thơ. Ông Tiếu thều thào:
– Con tôi đấy bà ạ… Nó bị mất tích trong một trận bom. Người ta bảo nó đã chết cùng với mẹ nó. Nếu thế tại sao chỉ tìm thấy xác mẹ nó thôi. Tôi tin nó vẫn còn sống, có thể nó lưu lạc ở phương nào. Lê con ơi…
Từ đôi mắt mờ đục của ông, hai giọt nước như được gạn từ đáy mắt, như những giọt thủy ngân khó nhọc lăn ra. Ông nức lên, nói đứt quãng:
– Bà ơi, nếu… có… một ngày… nào… đó bà thấy có một người con gái… trạc hai mươi… mà giống con… bé trong ảnh này… bà nhớ gọi lại hỏi gốc gác… xem có phải bố nó là ông Tuyền ở xóm Đoài, xã Hoài Ân… không nhé. Và nếu phải… bà nói rằng bố nó vẫn chờ nó… cho đến chết… bà đưa cho nó một trăm đồng… bạc này…
Rồi ông thở hắt ra. Nụ cười oan nghiệt vĩnh viễn tắt trên đôi môi ông.
Bà Diễm ngồi lặng câm nhìn tấm ảnh và một trăm đồng bạc côi cút. Trăm bạc này, chắc ông đã ki cóp từ lâu lắm, khi nó còn mua được nửa chỉ vàng. ốm đau đói rét bao phen, cũng không bao giờ dám đụng đến, để cho đến bây giờ, một trăm đồng bạc của ông dành cho con cũng chỉ đủ để mua một mớ rau muống…
Rồi mộ ông Tiếu cỏ xanh phủ dần, đám cỏ đuôi gà bò lan cả ra mặt đất bằng. Thỉnh thoảng bà Diễm thắp vài nén hương cho ông, lần nào bà cũng thầm thì khấn:
– “Ông Tiếu ơi, tôi vẫn để ý tìm con cho ông mà đâu thấy. Tôi tìm cả khi chờ thùng nước đầy, cả khi đang gánh nước, ngày này qua ngày khác. ờ, nếu nó còn sống thì tôi cũng chẳng còn mấy thời giờ nữa để làm việc đó cho ông. Tôi cũng sắp theo ông về với đất rồi đây. Nhưng mãi đến tận lúc này, tôi vẫn tin có thể chốc nữa, có thể tối nay, ngày mai, con bé đến và hỏi, giọng nó trong veo: “Có phải ông Tuyền cha cháu ở đây không?…”.
Người ta bảo nhau rằng, dạo này bà Diễm càng dở hơi tệ, bởi vì ngoài cái tật cứ nói lẩm bẩm một mình, trong tay bà không bao giờ rời cái gói nhỏ bọc vải nhựa đã cũ mèm, chẳng khác mụ phù thủy đang giữ chặt bùa phép duy nhất giúp cho bà còn sống trên đời này. Có ai biết rằng cái bùa phép đó là tấm ảnh một bé gái đã ố vàng và một trăm đồng bạc cũ. Đằng sau tấm ảnh, một dòng chữ mới viết xiên xẹo đầy lỗi chính tả: “Đây nà cháu Nê, con ông Tuyền ở xóm Đoài, xã Hoài Ân… một trăm đồng bạc lày nà của cháu!”.
(Trích trong 20 truyện ngắn chọn lọc, NXB Lao động, 2009, tr.291 – 299)
Cước chú:
Võ Thị Hảo là nữ nhà văn sinh năm 1956, chuyên viết thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết với các tác phẩm tiêu biểu như: Biển cứu rỗi, Chuông vong cuối chiều, Một tram cái dại của đàn ông, Giàn thiêu, Người sót lại của rừng cười….Với cách viết theo kiểu kết cấu logic nhân quả tâm lí, nhà văn đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật và làm cho câu chuyện hiện lên rõ nét nhất đối với bạn đọc. Người gánh nước thuê là truyện ngắn đầu tay của Võ Thị Hảo được viết năm 1989, khi nữ nhà văn mới bước chân vào làng văn.
——-HẾT ——–
HƯỚNG DẪN CHẤM
| Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
| I | ĐỌC HIỂU | 6.0 | |
| 1 | Các từ ngữ gới ý niệm thời gian, không gian trong khổ thơ đầu: cửa sổ, đêm, bờ biển, cát, sao, gian nhà trọ, ngọn đèn vàng
–Thí sinh trả lời như đáp án: 1.0đ -Thí sinh trả lời không đúng như đáp án: không cho điểm |
1.0 | |
| 2 | Yếu tố tượng trưng: tiếng thì thầm lan mãi đến xa xôi
–Thí sinh trả lời như đáp án: 1.0đ -Thí sinh trả lời không đúng như đáp án: không cho điểm |
1.0 | |
| 3 | – Cấu tứ của bài thơ:
+ Bài thơ được cấu tứ dựa trên những xúc cảm của nhân vật trữ tình “tôi” trong một “đêm trở về” quê nhà sau nhiều năm xa cách. + Mạch tâm trạng của nhân vật trữ tình vận động qua nhiều cung bậc như xốn xang náo nức, xúc động động nghẹn ngào đến vui sướng hạnh phúc. + Hình tượng quê hương hiện lên trong những không gian thân thuộc, những hình ảnh bình dị, những thanh âm thân thương, những hương vị mộc mạc thân quen rất đỗi. + Dáng hình quê nhà và xúc cảm chân thành của nhà thơ được gửi gắm trong hình thức thơ tự do, ngôn từ giàu hình ảnh với nhiều biện pháp tu từ được sử dụng. –Thí sinh trả lời như đáp án: 1.0đ – Thí sinh trả lời được ½ đáp án được 0.5 điểm -Thí sinh trả lời không đúng như đáp án: không cho điểm |
1.0 | |
| 4 | – Dấu hiệu của phong cách lãng mạn được biểu hiện trong bài thơ:
+ Cảm hứng: bài thơ chú trọng khắc họa thế giới nội tâm với những rung động tinh tế, những xúc cảm mãnh liệt của nhân vật trữ tình, qua đó khẳng định tình yêu quê hương sâu sắc. + Hình tượng: Hình ảnh quê hương được khắc họa mang vẻ đẹp thanh bình, vừa thân thương vừa thơ mộng. + Ngôn từ: trong sáng, nhẹ nhàng mà giàu sức gợi; nhiều hình ảnh, liên tưởng bay bổng thú vị, các câu thơ được tổ chức tự do, linh hoạt. + Sự xuất hiện của một số yếu tố có tính chất tượng trưng trong bài thơ. –Thí sinh trả lời như đáp án: 1,0 – Thí sinh trả lời được ½ đáp án được 0.5 điểm -Thí sinh trả lời không đúng như đáp án: không cho điểm |
1.0
|
|
| 5 | – Những suy cảm của tác giả: tình yêu, sự gắn bó, sự tôn trọng đối với quê hương
– Gợi thức tình cảm với quê nhà nơi người đọc: + Sự nhớ nhung da diết quê hương và những giá trị xưa cũ, + Tình cảm thương yêu da diết đối với quê hương + Sự tôn trọng những giá trị cao cả mà quê hương đã mang lại + Khát vọng cống hiến, dựng xây quê nhà –Thí sinh trả lời như đáp án:2.0đ -Thí sinh chỉ trả lời được ½ số ý : 1.0đ Lưu ý: Thí sinh có thể trả lời bằng các từ ngữ/các cách diễn đạt tương đương vẫn cho điểm tối đa |
2.0 | |
| II | LÀM VĂN | 14.0 | |
|
1 |
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200) chữ trình bày suy nghĩ của anh chị về thông điệp được gợi ra từ câu nói sau.
Nếu anh muốn pha một tách trà nóng, trước hết anh phải đổ đi trà nguội trong chiếc tách ấy. |
4.0 | |
| a,Yêu cầu chung: Câu hỏi hướng đến việc đánh giá năng lực viết đoạn văn NLXH, đòi hỏi thí sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập đoạn văn nghị luận, biết sử dụng các thao tác lập luận, lí lẽ, dẫn chứng hợp lí, thuyết phục và bày tỏ thái độ, chủ kiến của mình. | 0.5 | ||
| b,Yêu cầu cụ thể: thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng; bày tỏ quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Có thể theo hướng sau: – Trà nóng: những điều mới, phù hợp và có giá trị. Trà nguội: thứ trà không còn dùng được, không còn phù hợp với nhu cầu bản thân. Mượn việc pha trà, ý kiến trên đã nói đến thái độ và cách ứng xử của con người trước những việc đã qua: Muốn bắt đầu lại công việc nào đó, chúng ta phải biết gạt bỏ những gì đã qua để xây dựng điều mới mẻ hơn, tốt đẹp hơn. – Cuộc sống luôn tiến về phía trước, trước thời gian luôn chảy trôi, con người không thể sống mãi trong một thời khắc. Đây cũng là quy luật của cuộc đời. Đắm chìm trong quá khứ sẽ làm con người mất ý chí, niềm tin, động lực trong cuộc sống. – Tương lai tốt đẹp là điều mỗi người luôn mong chờ, đón đợi nhưng nó chỉ đến khi con người biết bỏ lại sau lưng những gì đã qua. – Việc gạt bỏ những điều đã qua, cũ kĩ, không phù hợp không chỉ cần sức mạnh của ý chí, nghị lực mà còn cần sự chủ động, thức thời, lòng tự tin. Vì thế trong cuộc sống con người cần chủ động, tự tin bước qua quá khứ để có một cuộc sống tốt đẹp trong hiện tại và tương lai. – Tuy nhiên, hướng tới tương lai không có nghĩa là hoàn toàn phủ nhận quá khứ, cần phải biết trân trọng, học tập những điều tốt đẹp của quá khứ để biến thành sức mạnh cho hiện tại và tương lai – Trong cuộc sống, con người cần biết vượt lên quá khứ để kiến tạo hiện tại và tương lai bằng cách nỗ lực trong học tập, lao động, chủ động trong cuộc sống để tạo cho mình một cuộc sống tốt đẹp. Trong quá trình bàn luận, thí sinh cần lấy dẫn chứng minh họa phù hợp và bàn luận mở rộng rút ra bài học. Hướng dẫn chấm: – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục; lí lẽ xác đáng; dẫn chứng tiêu biểu phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và dẫn chứng (3.0-4.0đ) – Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục; lí lẽ xác đáng; có dẫn chứng nhưng chưa tiêu biểu (2.25-2.75đ) – Lập luận không chặt chẽ; lí lẽ chưa xác đáng, chưa liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận; có dẫn chứng nhưng không phù hợp (0.75-1.25đ) – Lập luận chung chung; lí lẽ không xác đáng, không liên quan đến vấn đề nghị luận; không có dẫn chứng (0.25-0.5đ) |
3.0
0.5
0.5
0.5
0.5
0.5
0.5
|
||
| c. Sáng tạo
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận, có dẫn chứng tiêu biểu. |
0.5 | ||
| 2 | Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư chia sẻ: Tôi bắt đầu tin văn chương cũng có lửa làm tan chảy những bức tường thép mà mỗi người tự dựng lên; văn chương cũng là băng, gắn kết những ốc – đảo – người thành một khối, văn chương cũng là nước, dịu dàng mà mãnh liệt vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ…” Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua truyện ngắn Người gánh nước thuê (Võ Thị Hảo) | 10.0 | |
| Yêu cầu chung:
Câu hỏi hướng đến việc đánh giá năng lực viết bài văn NLVH, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản. Thí sinh có thể cảm nhận và lí giải theo những cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng. |
|
||
| a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề. | 0.25
|
||
| b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: chứng minh, làm rõ ý kiến qua truyện ngắn Người gánh nước thuê của Võ Thị Hảo | 0.5 | ||
| c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm: Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng, đảm bảo các yêu cầu sau: | |||
| 1. Giải thích ý kiến | 2.0 | ||
| *Cắt nghĩa:
– “Văn chương cũng có lửa, làm tan chảy những bức tường thép mà mỗi người tự dựng lên”: văn chương có sức nóng/sức mạnh làm tan chảy vỏ bọc bên ngoài cứng rắn, sự lạnh lùng vô cảm của con người. “Lửa” văn chương sẽ làm tan chảy “bức tường thép” của mỗi người tức là làm cho con người dẹp bỏ được cái tôi kiêu ngạo của mình, dẹp bỏ được phòng tuyến ngụy trang của bản thân, dùng trái tim để đối đãi với trái tim. – “văn chương cũng là băng, gắn kết những ốc đảo người thành một khối”: “Băng” trong văn chương có sức mạnh “gắn kết” những con người xa lạ, cô đơn, riêng lẻ -“những ốc đảo” xích lại gần nhau, hiểu nhau để trở thành một khối đoàn kết. – “văn chương cũng là nước, dịu dàng mà mãnh liệt vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ”: văn chương như một dòng chảy bất tận vượt qua những giới hạn về thời gian, không gian trong cuộc sống, kết nối con người với mọi thời đại để đem tới cho con người “một bài học trông nhìn và thưởng thức” (Thạch Lam). => Chia sẻ của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư khẳng định chức năng, ý nghĩa, giá trị của văn chương. Văn chương có “sức mạnh kết nối” mạnh mẽ, phá tan mọi rào cản, giới hạn để đến với trái tim người đọc, gắn kết con người và nhân loại. * Lí giải: – Văn học bắt rễ từ hiện thực đời sống. Nhưng nhà văn sáng tác không chỉ để tái hiện đời sống một cách đơn thuần. Tác phẩm văn học ra đời là kết tinh của những trăn trở, những tình cảm mãnh liệt, những khát vọng sục sôi. Người nghệ sĩ bao giờ cũng muốn thông qua tác phẩm, truyền đi một tiếng nói, gửi đi một thông điệp tới người đọc. Ở chiều ngược lại, người đọc trong sự giải mã văn bản, luôn khao khát kiếm tìm một tiếng nói “đồng ý, đồng chí”. Vì thế có thể khẳng định, văn chương sinh ra đã mang trong mình một sức mạnh mãnh liệt kết nối những tâm hồn đồng điệu. – Văn chương ra đời với sứ mệnh nâng đỡ, xây dựng con người, hướng con người đến những quan niệm sống tốt đẹp. Văn học mở ra cho con người một chân trời mới, đưa con người đến những miền đất mới lạ; tác động vào tư tưởng, tình cảm, hành vi của con người, giúp họ hướng về Chân-Thiện-Mĩ, làm cho người gần người hơn. Và nói như Hoài Thanh là: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện những tình cảm ta sẵn có”, hoặc nói như Macxim Gorki: “Văn học là nhân học”. Văn chương vừa bồi đắp tư tưởng tình cảm vừa thanh lọc tâm hồn con người, hướng con người đến những tư tưởng cao đẹp, biết đâu là điều đáng yêu, đáng ghét, biết trân trọng cái thiện, cái đẹp, biết căm ghét và lên án cái xấu xa, độc ác, vô nhân đạo giúp cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn, có thể thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng tình cảm của con người theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến bộ. Trên hành trình ấy, văn chương đã gắn kết những con người xa lạ. – Không phải chỉ đơn giản gắn kết giữa người đọc và tác phẩm, mà văn chương còn gắn kết độc giả với nhau. Do mang trong mình những sứ mệnh đặc biệt nên sức mạnh của văn chương không thể chỉ là sức mạnh nhỏ bé và tầm thường. Đó phải là một sức mạnh mãnh liệt và trường tồn, vượt mọi khoảng cách không-thời gian, có khả năng chống lại “mọi định luật băng hoại của thời gian” (Sekhov). |
1.0
1.0 |
||
| 3. Phân tích, chứng minh | 5.5 | ||
| a, Giới thiệu khái quát về tác giả Võ Thị Hảo và truyện ngắn Người gánh nước thuê
b, Truyện ngắn Người gánh nước thuê vừa có “lửa”, vừa có “băng” lại vừa là “nước”: * Người gánh nước thuê đã làm “tan chảy” trái tim độc giả, thức dậy những tình cảm, suy nghĩ, trăn trở cao đẹp, nhân văn trong lòng người đọc. – Trước hết, truyện khơi dậy nơi người đọc niềm xúc động chân thành, sự thương cảm sâu sắc với những số phận cuộc đời nghèo khó, bất hạnh trong cơn bão táp của nền kinh tế thị trường. Đó là hình ảnh của bà Diễm và ông Tiếu. + Những con người với ngoại hình toát lên vẻ khắc khổ: bà Diễm hiện lên với dáng người bé loắt choát, bộ mặt nhăn nheo gầy sạm. Ông Tiếu được khắc họa với một khuôn mặt khắc khổ ngàn vạn nếp nhăn, đôi mắt biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường…. + Họ làm công việc gánh nước thuê nặng nhọc, vất vả, chịu sự khinh khi của người đời. + Họ có cảnh ngộ éo le: nghèo khó, neo đơn, chịu những khiếm khuyết về thể chất (bà Diễm), mang những nỗi buồn đau riêng của gia đình (ông Tiếu) =>Nhà văn đã ghé ngòi bút của mình xuống dưới đáy cùng của xã hôi, lắng nghe tiếng thĩ thầm của những mảnh đời bất hạnh, để khêu lên lòng trắc ẩn chân thành nơi người đọc. – Truyện ngắn còn gieo vào tâm hồn người đọc niềm trân trọng, tin yêu những phẩm chất người rất đẹp; sự ngợi ca những tình cảm cao đẹp của con người: đó là tình phụ tử, tình người bao la, chữ tín giữa con người với con người. + Đó là tình phụ tử thiêng liêng của ông Tiếu dành cho đứa con gái bị mất tích trong một trận bom. Ông vẫn nuôi hi vọng con còn sống và luôn mang theo tấm ảnh của con bên cạnh cho đến lúc chết. + Đó là tình người bao la giữa những người cùng khổ. Từ những người xa lạ, qua những lần giúp đỡ nhau tai máy nước, bà Diễm đã đề nghị ông Tiếu về ở cùng túp lều của mình khi biết ông Tiếu không có nhà, mỗi tối phải lang thang nơi góc chợ. Đó là sự cưu mang, giúp đỡ, nương tựa lẫn nhau giữa hai cái cây đã bị cơn lốc cuộc đời quật cho bật hết rễ. + Đó là niềm tin trao gửi và sự hết lòng của người sống để thực hiện di nguyện của người đã khuất. Bà Diễm luôn đau đáu việc tìm con cho ông Tiếu như di nguyện trước khi chết của ông. Chi tiết cuối truyện bà Diễm dù ngày càng lẩm cẩm nhưng luôn giữ chặt trong tay tấm ảnh của bé gái con ông Tiếu và dòng chữ nhắn nhủ người nhận thật khiến người đọc không khỏi xót xa. =>Truyện ngắn vì thế đã thức gợi và thắp lửa tin yêu nơi trái tim độc giả giữa cuộc sống còn nhiều bộn bề và lo toan. * Người gánh nước thuê không chỉ đưa người đọc đến gần với số phận của những phận người khốn khổ và bất hạnh trong xã hội, mà qua trang viết, người đọc còn có dịp “kết nối, đồng điệu” với tác giả. Qua tiếng nói kín đáo mà nhà văn gửi vào con chữ để bày tỏ niềm cảm thông, xót xa với nỗi đau khổ của con người; bày tỏ niềm trăn trở, sự phê phán trước sự vô cảm với nỗi đau của con người; người đọc có dịp được “diện kiến” một con người với tấm lòng trắc ẩn mênh mông, với trái tim nhân ái và luôn thổn thức trước những vấn đề đời sống của con người, với tâm hồn tế vi luôn run lên trước hiện thực đời sống. Đó là tiếng nói tri âm trong văn học. * Tác phẩm thực sự còn là cầu nối, kết nối những tâm hồn đồng điệu. Vượt lên trên khoảng cách không gian, thời gian, những “người đọc xa lạ” đã gặp nhau tại trang viết Người gánh nước thuê trên hành trình khám phá cuộc sống và số phận con người. Cùng thương cảm với nỗi khổ đau, cùng nâng niu những điều tốt đẹp, độc giả đã đồng hành cùng nhau trên chặng đường vươn tới và thức gọi phần người tốt đẹp trong mỗi con người. Thiết nghĩ, đó chính là giá trị cao đẹp nhất, sứ mệnh thiêng liêng nhất của văn học. c, Sức mạnh của “lửa”, “băng”, “nước” trong Người gánh nước thuê được truyền tải qua một hình thức nghệ thuật độc đáo: – Kể chuyện theo ngôi thứ ba với điểm nhìn chủ yếu là điểm nhìn của người kể chuyện – Truyện kể theo trật tự thời gian tuyến tính nhưng đan xen nhiều chi tiết bất ngờ lôi cuốn – Xây dựng nhân vật: tô đậm ngoại hình với những chi tiết mang tính biểu tượng, khắc họa qua ngôn ngữ đối thoại và lời kể, lời tả của người kể chuyện – Giọng điệu trần thuật khách quan, có phần lạnh lùng nhưng ẩn đằng sau là niềm xót thương dành cho nhân vật của nhà văn – Ngôn ngữ giản dị nhưng vẫn tinh tế, chọn lọc |
0.5
4.0
2.5
1.0
0.5
1.0 |
||
| 4. Đánh giá nâng cao vấn đề
– Ý kiến đúng đắn đề cao vai trò sức mạnh của văn chương. Văn học chân chính, người nghệ sĩ thực thụ phải có sứ mệnh “làm cho người gần người hơn” (Nam Cao). – Bài học cho người viết truyện ngắn: phải có xúc cảm mãnh liệt, chân thành, tài năng nghệ thuật điêu luyện, trí tưởng tượng phong phú để không chỉ phản ánh hiện thực sẵn có mà còn nói lên những điều cần có, chưa có trong cuộc đời; thể hiện ước mơ, khát vọng và những cảm xúc tinh tế trong chiều sâu tâm hồn con người để tác phẩm có thể đến với trái tim bạn đọc, gắn kết con người nhiều thế hệ. Nếu nhà văn không có vốn sống, không có tài năng để viết nên tác phẩm cho đời, cho người thì làm sao nghệ thuật có thể hóa thân thành “lửa”, thành “băng”, thành “nước”? – Bài học về tiếp nhận văn chương: Nếu độc giả tiếp nhận một cách hời hợt và chóng vánh thì văn chương cũng không thể hóa thành bất cứ điều kỳ diệu nào để gắn kết con người. Vì thế người đọc cần đến với tác phẩm bằng tất cả tình yêu, niềm say mê, chân thành mới có thể nhận ra được thông điệp mà người nghệ sỹ gửi gắm, từ đó khám phá vẻ đẹp kì diệu của văn chương và những tình cảm sâu kín, nhân bản của con người. |
1.0 | ||
| d. Ngữ pháp, chính tả: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt. | 0.25 | ||
| e. Sáng tạo: thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề cần nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ. | 0.5 | ||
| TỔNG ĐIỂM TOÀN BÀI | 20.0 | ||
☕ Nếu bạn thấy tài liệu này hữu ích, hãy ủng hộ mình một ly cà phê nhỏ để có thêm động lực biên soạn, cập nhật và duy trì website miễn phí, không quảng cáo gây phiền nhé!
💬 Mỗi tháng có hơn 20.000 học sinh truy cập học tập miễn phí — cảm ơn bạn đã giúp mình duy trì dự án này! ❤️
⚠️ Trang web không thu bất kỳ khoản phí nào khi tải tài liệu. Mọi nội dung đều miễn phí cho học sinh và giáo viên.
🚫 Khuyến nghị: Không thực hiện thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào cho các quảng cáo hoặc liên kết mạo danh website.
📚 Tham gia nhóm tài liệu
Cập nhật tài liệu, đề thi và bài ôn tập miễn phí mỗi ngày qua các kênh chat:
📝 Tổng hợp đề kiểm tra Cuối học kì 1 môn Ngữ văn từ lớp 6 → 12
Bộ sưu tập đề kiểm tra Cuối học kì 1 môn Ngữ văn cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12. Mỗi đề đều kèm đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết giúp học sinh ôn luyện hiệu quả trước kỳ thi.
🧠 Cập nhật liên tục – giúp học sinh ôn tập vững vàng trước kỳ thi cuối học kì 1.
📚 Ghi chú bản quyền & lời cảm ơn
Các tài liệu trên website được biên tập, định dạng lại và tổng hợp
từ nhiều nguồn công khai, nhằm mục đích hỗ trợ học tập, chia sẻ tri thức cho cộng đồng học sinh.
Nếu bạn là tác giả hoặc sở hữu bản quyền và không muốn nội dung xuất hiện tại đây, vui lòng liên hệ qua email mrcao.aof@gmail.com để mình gỡ xuống ngay. Xin chân thành cảm ơn!