📝 Tổng hợp đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Ngữ văn từ lớp 6 → 12
Bộ sưu tập đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Ngữ văn cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12. Mỗi đề đều kèm đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết giúp học sinh ôn luyện hiệu quả trước kỳ thi.
🧠 Cập nhật liên tục – giúp học sinh ôn tập vững vàng trước kỳ thi giữa học kì.
ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
NGƯNG THEO NGƯỜI KHÁC
Để tránh va chạm với những người khác thì những người quá tốt thường cố ép mình hoà hợp với những người xung quanh. Họ thường trốn tránh trách nhiệm với bản thân, và thấy thoải mái khi tuân theo những quyết định của người khác. Bởi vậy, họ không còn là chính mình mà chỉ đi theo người khác.
Hơn nữa, những người đó thường không có trục phán đoán cố định của riêng mình, dễ dàng tiếp nhận tất cả những ảnh hưởng từ người khác, kể cả những điều tốt và điều xấu. Không cần biết người nói là ai, hễ thấy “trên ti vi nói vậy”, “trang wed hướng dẫn thế này”, “anh ấy nói làm thế này cũng được” là họ mặc nhiên tin tưởng.
Chẳng hạn như, tuy bản thân không nghĩ tiền lương của mình thấp, nhưng nếu nghe một người đồng nghiệp nói rằng: “nếu lương thấp như của cậu thì tớ nghỉ ngay, chẳng thể nào làm nổi”, thì người đó cũng sẽ bị lăn tăn theo: “Ừ lẽ là vậy nhỉ”. Nếu để bản thân đồng ý với ý kiến ấy, thì người đó dần trở nên bất mãn. Cứ như vậy, những bất mãn của họ sẽ ngày càng nhiều hơn.
Việc dễ dàng tiếp nhận những ảnh hưởng của người khác đôi khi là một yếu tố cần thiết để bạn được mọi người yêu thương. Nhưng nếu như sự tín nhiệm và sự ngoan cố là hai mặt tồn tại trong một chủ thể, thì sự ngoan ngoãn và sự trì trệ cũng tồn tại song hành.
Những người đó được nuôi dưỡng trong môi trường mà họ không mong muốn, trên đường đi luôn có cha mẹ trải thảm đỏ sẵn nên dần dần năng lực suy nghĩ và phán đoán của cá nhân bị tước đoạt. Chính vì thế, họ cảm thấy khó khăn trong việc suy nghĩ hợp lí và logic, sợ hãi nếu phải quyết định. Kể cả trong những quyết định trọng đại như chuyển chỗ làm việc hay kết hôn, đôi khi cũng có người viện lí do để xin hoãn hay tạm dừng.
(…)
Đối với những người thiếu sự tin tưởng vững chắc vào cách sống và giá trị quan của bản thân, họ thường cảm thấy thoải mái với những thứ trừu tượng viển vông được trao vào tay mình.
(Trích: Đừng cười để vừa lòng người, Tokio Godo, Đặng Lê Minh dịch, NXB Thế giới, 2019, tr.103-104)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Nêu ý nghĩa nhan đề của văn bản.
Câu 2. Chỉ ra tác dụng của việc kết hợp các thao tác lập luận trong văn bản.
Câu 3. Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu sau: “Không cần biết người nói là ai, hễ thấy “trên ti vi nói vậy”, “trang wed hướng dẫn thế này”, “anh ấy nói làm thế này cũng được” là họ mặc nhiên tin tưởng”.
Câu 4. Anh/ chị có đồng tình với quan điểm “Đối với những người thiếu sự tin tưởng vững chắc vào cách sống và giá trị quan của bản thân, họ thường cảm thấy thoải mái với những thứ trừu tượng viển vông được trao vào tay mình” không? Vì sao?
Câu 5. Từ nội dung được đề cập trong văn bản, theo anh/chị, cần làm thế nào để “tránh va chạm với những người khác” mà vẫn là chính mình?
PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Trong sách Chúng ta sinh ra là để hạnh phúc (nhungdieubinhyen – Sơn Phạm) có một đoạn viết: “Nếu không ai thắp sáng cho con đường bạn đi. Vậy hãy tự làm một ngọn đèn soi sáng cho chính mình”.
Anh/ chị hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm về cách để tự làm một ngọn đèn soi sáng cho chính mình.
Câu 2. (4,0 điểm)
Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật cậu bé Đức trong văn bản sau:
TÂM HỒN MẸ
Khi Đăng hai tuổi, mẹ nó chết đột ngột vì sốt xuất huyết. Vì thế, hình ảnh của nó về một người mẹ rất mơ hồ. Nó với ở ông bà ngoại. Bố nó đã đi lấy vợ khác, chỉ thỉnh thoảng mới đến thăm nó.
Đăng hình dung mẹ theo cách nghĩ riêng của nó. Nó hay xét nét sự quan tâm chăm sóc của những người xung quanh nó bằng cách đặt ra câu hỏi: nếu là mẹ sẽ thế nào? Chẳng hạn, lúc tắm bà ngoại kì cọ kĩ quá, nó nghĩ ngay rằng nếu là mẹ thì không làm thế. Mẹ chỉ gội đầu và kỳ cọ những chỗ cần thiết, còn thì mẹ để cho nó tự làm lấy. Ăn cơm cũng vậy, nếu là mẹ thì không làm như ông ngoại. Ông ngoại không hiểu nó không thích lạp xưởng, đáng lẽ đừng ép thì đằng này ông lại ép, nổi giận và cuối cùng ông chén luôn miếng lạp xưởng. Nó không tiếc miếng lạp xưởng, nó chỉ tủi thân vì ông không hiểu nó.
Bây giờ khi lên bảy, Đăng hiểu không ai có thể cư xử săn sóc cho nó như là mẹ được. Thường mọi người làm quá yêu cầu hoặc cư xử với nó không thật đến nơi đến chốn. Cả hai cách ấy đều thật không tốt. Tuy thế, nó không biết làm thế nào.
Đến bảy tuổi, Đăng chỉ quanh quẩn trong nhà. Nó ở với toàn người lớn. Người lớn không hiểu nó. Nó luôn cảm thấy tủi thân. Tóm lại là không thể bằng mẹ. Mẹ thì khác, dĩ nhiên rồi. Mẹ là hình ảnh tuyệt diệu, nó không hình dung là sẽ thế nào, những rõ ràng nó cảm nhận được.
Trong số bạn bè ít ỏi của Đăng có Thu. Thu bảy tuổi, có bố mẹ, có cả em nữa. Ở trong hoàn cảnh như thế nên ý nghĩ và tình cảm của Thu khác nó. Thu hồn nhiên và khá tự do. Nó có thể đi chơi mà chẳng cần phải định giờ về. Nó khác Đăng. Đăng bị một loạt quy định kìm giữ. Ông bà ngoại Đăng luôn luôn căng thẳng trong trách nhiệm với đứa cháu mình. Từ việc chơi với Thu, điều này thật vô hại mà ông bà cũng đe nẹt, cấm đoán nó.
Thu có đôi tai hồng và đôi mắt đen nháy. Không hiểu sao Đăng rất thích được ve vuốt đôi tai hồng ấy và nhìn sâu vào đôi mắt đen nháy ấy.
– Mày nhìn như nuốt tao ấy. Mày tìm cái gì ở đấy?
Đăng bối rối. Ừ, nếu là mẹ thì chắc cũng có đôi mắt như vậy. Không thể khác được.
– Không, tao không tìm gì cả. – Nó đánh trống lảng. – Này, mày có hay khóc không?
– Thỉnh thoảng. Phải có cái gì mới khóc chứ. Ai lại tự nhiên đi khóc bao giờ?
– Thế mà thỉnh thoảng tao lại tự nhiên khóc đấy. – Đăng nói. Nó cố ngẫm nghĩ xem có lần nào nó tự nhiên khóc không?
– Đấy là hồn của mẹ mày. – Thu nghiêm trang nói. Nó đã nghe đến chuyện người ta gọi hồn. – Hồn mẹ mày về bảo: “Này Đăng, con khóc đi, khóc đi cho vơi nỗi buồn…”
– Nỗi buồn là gì? – Đăng hỏi.
– Không biết, nhưng nó cũng giống như đánh mất cái gì. Hôm qua tao đánh mất cái cặp tóc, thế là tao buồn.
– Tao đánh mất thì tao không buồn. – Đăng kiên quyết. – Ông ngoại tao bảo: “Ở đời người ta đánh mất nhiều thứ lắm. Người mất của cải, người mất tâm hồn…”
– Tâm hồn là gì?
– Nó ở đây này. – Đăng chỉ vào bụng.
– Trong bụng người ta toàn cứt. – Thu thở dài. – Mẹ tao bảo thế. Nếu thế thì kinh quá nhỉ?
– Đấy là mẹ mày nói bậy bạ thế thôi. – Đăng an ủi. – Tâm hồn nó giống như dây đàn ấy, ông ngoại tao bảo thế, khi có ngọn gió thổi đến thì nó rung lên khe khẽ: a-a-a-a…
– Tâm hồn mà kêu a-a thì hay thật. – Thu cười như nắc nẻ. Nó nhắm mắt lại và nhại: a-a-a-a…
– Mày chẳng hiểu gì cả. – Đăng bực dọc. – Mày không có tâm hồn. Mày giống mẹ mày ấy. Mẹ mày chỉ thích tiền thôi.
– Có thể thật. – Thu công nhận. – Có thể mẹ tao không có tâm hồn thật đấy! Chẳng cần! Mà có tâm hồn làm gì. Khi gió thổi đến nó lại kêu a-a thì kinh lắm. – Thu lại cười nắc nẻ.
Đăng nhíu lông mày lại. Nó không thích Thu trêu nó. Nó bảo:
-. Mày cười như thế là đủ rồi đấy. Con gái hay cười là vô duyên lắm…
– Vô duyên thì làm quái gì?
– Vô duyên thì ế chồng đấy.
– Thằng quỷ ạ. Mày như cụ non ấy! – Thu phát cáu, từ trong tiềm thức của nó, bản tính tự nhiên giục nó tìm cách trả thù bằng cách cố ý soi mói độc ác. – Mày là thằng mồ côi. Mày cay nghiệt lắm!
Đăng sững lại, mặt nó tái đi. Thu chọc mũi kim vào nơi nó đau nhất. nước mắt nó trào ra, đôi môi run rẩy, tái dại. Thần sắc của nó biến đổi khiến Thu hoảng sợ.
[…]
(Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Hội nhà văn, 2005, tr224-226)
Chú thích
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29/4/1950 tại huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ, ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên… Vì thế, nông thôn và những người lao động để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong những sáng tác của ông.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ những người nghèo khổ, hay những người mang hình dạng kì dị… tuy mang dáng dấp cổ tích, nhưng lại chất chứa những cảm giác thời hiện đại. Họ luôn luôn dấn thân trên con đường đi tìm hạnh phúc, đi tìm cái Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối, để rồi nhận được những bài học cay đắng, xót xa. Với tuyên ngôn “Tôi căm ghét sâu sắc những kết thúc có hậu”, những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết đều kết thúc không có hậu. Nó mở ra những dự cảm, những cảm xúc tái tê đằng sau khối cô văn lạnh lùng của một cây bút tỉnh táo, sắc nhạy, khiến cho người đọc cứ thế ngấm dần, ngấm dần và xoáy theo luồng xúc cảm cùng những nhân vật.
———-Hết———-
| Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
| Các câu hỏi trong đề thi ra theo hướng mở, thí sinh được quyền trả lời theo ý hiểu của bản thân, nhưng cần đảm bảo sức thuyết phục. Giám khảo tham khảo các gợi ý sau để đánh giá, cho điểm. | |||
| I | ĐỌC HIỂU | 4,0 | |
| 1 | Ý nghĩa nhan đề văn bản:
– Sử dụng hình thức câu cầu khiến, ngắn gọn, súc tích. – Ý nghĩa: Hé lộ nội dung văn bản và thể hiện được quan điểm của người viết: khuyên mỗi người cần có lập trường quan điểm, có thế giới quan của riêng mình, không nên bị chi phối bởi lời nói, quan điểm của người khác. Hướng dẫn chấm – Học sinh trả lời như đáp án: 0,5 điểm – Học sinh trả lời được 1 trong 2 ý: 0,25 điểm. – Học sinh trả lời không đúng hoặc không làm bài: không cho điểm |
0,5 | |
| 2 | Tác dụng của việc kết hợp các thao tác lập luận trong văn bản:
– Các thao tác lập luận được sử dụng: chứng minh, bình luận, phân tích – Tác dụng: làm cho lí lẽ trở nên chặt chẽ, sắc bén; tạo được sự thuyết phục với người đọc người nghe, thể hiện được quan điểm của người viết Hướng dẫn chấm – Học sinh trả lời như đáp án hoặc diễn đạt tương đương: 0,5 điểm – Học sinh trả lời được 01 ý: 0,25 điểm – Học sinh trả lời không đúng hoặc không làm bài: không cho điểm |
0,5 | |
| 3 | Tác dụng của việc sử dụng của biện pháp nghệ thuật
– Nghệ thuật liệt kê: hễ thấy “trên ti vi nói vậy”, “trang web hướng dẫn thế này”, “anh ấy nói làm thế này cũng được”. – Tác dụng: + Nhấn mạnh hiện tượng thụ động (trong việc giải quyết vấn đề, tiếp nhận thông tin) của một số người, dễ dàng bị chi phối bởi những tác động khách quan. + Tăng tính thuyết phục cho lí lẽ của người viết. Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời đủ 3 ý như đáp án hoặc diễn đạt tương đương: 0,5 điểm – Học sinh trả lời đúng 2 ý trong đáp án hoặc diễn đạt tương đương: 0,25 điểm – Học sinh trả lời được 1 ý, không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm. |
0,5 | |
| 4 | “Đối với những người thiếu sự tin tưởng vững chắc vào cách sống và giá trị quan của bản thân, họ thường cảm thấy thoải mái với những thứ trừu tượng viển vông được trao vào tay mình”
Học sinh nêu được quan điểm của bản thân, có sự lí giải quan điểm thuyết phục, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Có thể tham khảo định hướng sau: + Nếu đồng tình: vì khi không tin tưởng vào chính mình thì con người ta có xu hướng tìm kiếm quan điểm, ý kiến của người khác. Khi ấy, dù những điều đó đúng hay sai, thực tế hay viển vông thì họ đều yên tâm, tin rằng người khác nói luôn đúng, mang lại cho họ tâm lí nhẹ nhàng, thoải mái mà không cần băn khoăn, suy nghĩ. + Nếu không đồng tình: vì nhiều người trong một số trường hợp có thể chưa tự tin, còn hoài nghi về những quyết định, lựa chọn của mình; họ có nhu cầu tham khảo, lắng nghe những lời khuyên của người khác. Từ đó, họ tiếp thu có chọn lọc, cân nhắc để đưa ra những quyết định đúng đắn chứ không thụ động tiếp nhận tất cả. Hướng dẫn chấm: – Học sinh nêu được quan điểm của bản thân, lí giải như trong đáp án hoặc diễn đạt tương đương:1,25 điểm – Học sinh nêu được quan điểm nhưng lí giải sơ sài: 0,75 điểm – Học sinh nêu được quan điểm nhưng lí giải chưa thuyết phục: 0,5 điểm. – Học sinh không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm. |
1,25 | |
| 5 | Giải pháp để “tránh va chạm với người khác” mà vẫn là chính mình:
HS có thể đưa ra nhiều đề xuất nhưng cần thuyết phục, hợp lí. Có thể tham khảo một số gợi ý sau: – Tránh va chạm với người khác: không muốn làm cho người khác không hài lòng, cảm thấy khó chịu hoặc bất mãn vì/với mình. – Là chính mình: có lập trường, quan điểm của bản thân. – Giải pháp để tránh va chạm với người khác mà vẫn là chính mình: + Mỗi người hãy tạo cho mình một thước đo phán đoán và hành động, có hiểu biết về các giá trị cốt lõi, có niềm tin vào bản thân. + Có thái độ cầu thị khi lắng nghe nhưng cũng cần biết chọn lọc để tránh bị chi phối bởi những quan điểm của người khác + Không “ép” bản thân thành người “ngoan” để vừa lòng người. Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời đủ các ý như đáp án hoặc diễn đạt tương đương:1,25 điểm. – Học sinh giải thích đủ ý, nêu được 2 giải pháp: 1,0 điểm. – Học sinh không giải thích, nêu được từ 3 giải pháp: 0,75 điểm. – Học sinh giải thích được mà không đưa ra được giải pháp hoặc không giải thích mà nêu được 2 giải pháp: 0,5 điểm – Học sinh không giải thích, nêu được 1 giải pháp:0,25 điểm. – Học sinh không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm. Lưu ý: chỉ tính các giải pháp thuyết phục. |
1,25
|
|
|
1 |
VIẾT | 6,0 | |
| Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm về cách để tự làm một ngọn đèn soi sáng cho chính mình. | 2,0 | ||
| a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài: viết đoạn văn nghị luận xã hội. | 0,25 | ||
| b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: bày tỏ quan điểm cá nhân về cách để tự làm một ngọn đèn soi sáng cho chính mình. | 0,25 | ||
| c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề cần nghị luận.
Thí sinh có thể chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải thể hiện được quan điểm về cách tự làm một ngọn đèn soi sáng cho chính mình. Có thể triển khai theo hướng: – Giải thích: Tự làm ngọn đèn soi sáng cho chính mình là chủ động đặt ra mục tiêu, kế hoạch cũng như tự tạo ra cơ hội cho bản thân để đạt được những điều mình mong muốn. à Trong cuộc sống, không phải ai cũng may mắn có được những ngọn đèn (tiềm lực, điều kiện, cơ hội) để thuận lợi thực hiện những khát vọng, ước mơ. Nếu như không có sẵn những ngọn đèn ấy thì nhất thiết phải tự làm ngọn đèn soi sáng cho hành trình đi đến tương lai của chính mình. – Cách tự làm ngọn đèn soi sáng cho chính mình: + Xây dựng cho mình niềm tin, tâm thế chủ động tìm kiếm, nắm giữ cơ hội mà cuộc sống trao tặng hoặc tự tạo ra cơ hội cho chính mình. + Có lối sống tích cực, tâm thế sống tích cực (Có ước mơ, khát vọng, nhiệt huyết, đam mê, sáng tạo; lạc quan, kiên trì, nhẫn nại…) dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. + Luôn dám nghĩ, dám hành động, sẵn sàng bước ra khỏi vùng an toàn, bứt phá những giới hạn để tạo ra cái mới, sự khác biệt. + Sống nhân văn để tạo lập những mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh, biết lan tỏa điều tốt đẹp đến cộng đồng. |
0,5 | ||
| d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận. – Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, lý lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý lẽ và bằng chứng – Sắp xếp được hệ thống ý hợp lý theo đặc điểm bố cục của kiểu đoạn văn. Lưu ý: học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. |
0,5 | ||
| đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng việt, liên kết câu trong đoạn văn. |
0,25 | ||
| e. Sáng tạo
Thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ, ấn tượng. |
0,25 | ||
| 2 | Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật Đức trong văn bản “Tâm hồn mẹ” | 4,0 | |
| a. Xác định yêu cầu của kiểu bài: viết bài văn nghị luận về một trích đoạn truyện. | 0,25 | ||
| b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật Đức trong trích đoạn truyện “Tâm hồn mẹ”. | 0,5 | ||
| c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết
– Xác định được các ý chính của bài viết – Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) của bài văn nghị luận. – Có nhiều cách trình bày đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong trích đoạn truyện ngắn. HS cần linh hoạt trong việc chọn cách trình bày phù hợp, gắn với đặc trưng thể loại, tài năng, phong cách của tác giả. Có thể triển khai các nội dung đánh giá theo những định hướng sau: * Giới thiệu về tác giả Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn “Tâm hồn mẹ”, giới thiệu nghệ thuật xây dựng nhân vật Đức. * Triển khai vấn đề nghị luận: – Nêu được vai trò của nhân vật trong truyện ngắn, nghệ thuật xây dựng nhân vật. + Nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực, gửi gắm tư tưởng, tình cảm, quan niệm của mình về cuộc đời. + Nghệ thuật xây dựng nhân vật thể hiện cách khám phá của nhà văn về cuộc sống, con người, thể hiện được cái tâm cũng như cái tài của người cầm bút. – Nghệ thuật xây dựng nhân vật Đức: +Đặt nhân vật vào hoàn cảnh đáng thương: ++ Lên hai tuổi thì mẹ chết đột ngột vì sốt xuất huyết, bố đi lấy vợ khác…à thiếu thốn tình cảm yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ. + +sống cùng ông bà ngoại nhưng không được thấu hiểu, thậm chí việc cậu chơi với Thu – một trong số bạn bè ít ỏi của cậu, cũng bị ông bà ngoại đe nẹt, cấm đoán.à phải sống trong “khung trách nhiệm” của ông bà với một loạt quy định kìm giữ, trở nên cô đơn, lạc lõng. +Miêu tả tâm lí nhân vật: ++ Qua lời kể của chính tác giả: … ++ Để nhân vật tự bộc lộ tính cánh, tâm trạng, cảm xúc, tâm hồn của chính mình qua những suy nghĩ thầm kín và qua ngôn ngữ đối thoại (với Thu). à cô đơn, buồn tủi ngay trong chính ngôi nhà của mình, luôn khao khát có được tình yêu thương của mẹ; hồn nhiên, ngây thơ trong sáng; có tâm hồn nhạy cảm, dễ bị tổn thương… + Ngôn ngữ, giọng kể: ngôn ngữ giản dị, tinh tế; giọng kể trĩu nặng thương cảm… + Cách dẫn dắt câu chuyện: tự nhiên, chân thật, đời thường. – Đánh giá chung: + Nghệ thuật xây dựng nhân vật góp phần thể hiện chủ đề của truyện… +Nghệ thuật xây dựng nhân vật Đức thể hiện cái nhìn về hiện thực đời sống, quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Huy Thiệp ( hiện thực ẩn chứa nhiều bi kịch, uẩn khúc, nỗi bất hạnh cua rcon người trong xã hộ hiện đại, kiểu nhân vật cô đơn…) * Kết thúc vấn đề nghị luận: – Khẳng định ý nghĩa vấn đề nghị luận – Nêu cảm nhận chung về truyện, những tác động của truyện đến tình cảm và nhận thức của bản thân. |
1,0 | ||
| d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:
– Triển khai ít nhất 02 luận điểm. – Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận. – Khi đánh giá cần so sánh với cách xây dựng nhân vật của tác giả khác hoặc so sánh với tác phẩm khác (của cùng tác giả) để làm nổi bật đóng góp riêng hoặc làm nổi bật được đặc điểm nổi bật trong phong cách của nhà văn. – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và bằng chứng. Lưu ý: học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với nội dung văn bản. |
1,5 | ||
| đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng việt, liên kết văn bản. |
0,25 | ||
| e. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. Biết sử dụng kiến thức lí luận văn học, ý kiến, nhận định tăng sức hấp dẫn thuyết phục cho bài viết. |
0,5 | ||
| Tổng điểm | 10,0 | ||
⚠️ Trang web không thu bất kỳ khoản phí nào khi tải tài liệu. Mọi nội dung đều miễn phí cho học sinh và giáo viên.
🚫 Khuyến nghị: Không thực hiện thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào cho các quảng cáo hoặc liên kết mạo danh website.
☕ Nếu bạn thấy tài liệu này hữu ích, hãy ủng hộ mình một ly cà phê nhỏ để mình có thêm động lực biên soạn, cập nhật và duy trì website miễn phí, không quảng cáo gây phiền nhé!
💬 Mỗi tháng có hơn 20.000 học sinh truy cập để học tập miễn phí — cảm ơn bạn đã giúp mình duy trì dự án này! ❤️
📝 Tổng hợp đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Ngữ văn từ lớp 6 → 12
Bộ sưu tập đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Ngữ văn cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12. Mỗi đề đều kèm đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết giúp học sinh ôn luyện hiệu quả trước kỳ thi.
🧠 Cập nhật liên tục – giúp học sinh ôn tập vững vàng trước kỳ thi giữa học kì.
📚 Ghi chú bản quyền & lời cảm ơn
Các tài liệu trên website được biên tập, định dạng lại và tổng hợp
từ nhiều nguồn công khai, nhằm mục đích hỗ trợ học tập, chia sẻ tri thức cho cộng đồng học sinh.
Nếu bạn là tác giả hoặc sở hữu bản quyền và không muốn nội dung xuất hiện tại đây, vui lòng liên hệ qua email mrcao.aof@gmail.com để mình gỡ xuống ngay. Xin chân thành cảm ơn!