BÀI VĂN PHÂN TÍCH MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC
(THƠ SONG THẤT LỤC BÁT, THƠ TÁM CHỮ, THƠ TỰ DO…)
- Mục tiêu bài học
- 1. Kiến thức:
-Giúp học sinh nắm vững các bước phân tích một tác phẩm thơ.
-Hiểu rõ các yếu tố nội dung và nghệ thuật trong thơ.
-Nắm được giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm.
2.Kỹ năng:
-Rèn luyện kỹ năng đọc hiểu, cảm thụ thơ ca.
-Phân tích, đánh giá các yếu tố nghệ thuật (từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, v.v.).
-Tổng hợp, khái quát và trình bày ý kiến một cách rõ ràng, mạch lạc.
-Vận dụng kiến thức để viết bài văn phân tích tác phẩm thơ.
- 3. Phẩm chất
-Bồi dưỡng tình yêu thơ ca, trân trọng giá trị văn học.
-Nâng cao khả năng cảm thụ thẩm mỹ.
-Rèn luyện tư duy sáng tạo, độc lập.
- Chuẩn bị
1.Giáo viên:
Soạn giáo án chi tiết.
Chuẩn bị văn bản tác phẩm thơ.
Chuẩn bị tài liệu tham khảo (nếu cần).
Bảng, phấn, bút, máy chiếu (nếu có).
- 2. Học sinh:
Đọc kỹ tác phẩm thơ trước khi đến lớp.
Tìm hiểu về tác giả, hoàn cảnh sáng tác (nếu có).
Chuẩn bị giấy, bút.
III. Tiến trình bài học
- LÝ THUYẾT
- KHÁI QUÁT VỀ DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC – THƠ
Có nhiều dạng đề nghị luận văn học thường gặp về phân tích một bài thơ: như thơ song thất lục bát, thơ 5,6,7,8 chữ, thơ tự do…
- YÊU CẦU CỦA BÀI VĂN PHÂN TÍCH MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC (THƠ)
– Xác định được thể thơ: Thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt.
– Giới thiệu khái quát về tác giả và bài thơ (nhan đề, đề tài, thể thơ,…); nêu ý kiến chung cuả người viết về bài thơ.
– Phân tích được nội dung cơ bản của bài thơ (đặc điểm của hình tượng thiên nhiên, con người; tâm trạng của nhà thơ), khái quát chủ đề bài thơ.
– Phân tích được một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật (một số yếu tố thi luật của thể thơ; nghệ thuật tả cảnh, tả tình; nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ (từ ngữ, biện pháp tu từ,…)
– Khẳng định được vị trí, ý nghĩa của bài thơ.
III. NHỮNG LƯU Ý TRƯỚC KHI PHÂN TÍCH THƠ
– Phân tích thơ là phân tích những từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, giọng điệu, biện pháp tu từ… được sử dụng trong bài thơ để từ đó làm nổi bật những tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.
– Phương pháp phân tích hoặc cảm nhận giúp cho người đọc nhận ra cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ đó. Đồng thời thấy được tài năng, sự sáng tạo, độc đáo của tác giả trong việc lựa chọn những hình ảnh, từ ngữ có thể miêu tả một cách chính xác và sâu sắc những tư tưởng, tình cảm mà họ muốn gửi gắm. Vì vậy việc phân tích thơ cần lưu ý một số điều:
+ Vài nét về tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ
+ Thể thơ: lục bát, thất ngôn bát cú, tự do, thơ 5 chữ,…
+ Hình ảnh, chi tiết, giọng điệu, vần (nhịp) thơ, ngôn ngữ thơ…
– Bố cục: Đây là phần quan trọng nhất để các em tìm ý, tìm luận điểm cho bài phân tích của mình. Có thể chia theo khổ, chia theo đoạn, câu…
* Kiến thức cần có trước khi làm bài
– Kiến thức về tác giả
– Nắm chắc bài thơ (ghi nhớ thơ giúp việc phân tích thơ dễ dàng hơn)
– Nội dung chính của tác phẩm
– Nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm
– Một số tác giả, tác phẩm cùng chủ đề để so sánh đối chiếu (nếu có)
- HƯỚNG DẪN QUY TRÌNH PHÂN TÍCH THƠ
- Bước 1: Phân tích đề (xác định yêu cầu đề bài)
– Xác định yêu cầu đề bài là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng không thể bỏ qua khi làm bài phân tích bài thơ, đoạn thơ cũng như với tất cả các dạng bài tập làm văn khác.
– Khi phân tích bài thơ, đoạn thơ các em cần đọc kĩ để xác định yêu cầu của đề bài
(Bài thơ ấy là bài thơ nào? Tác giả, hoàn cảnh sáng tác bài thơ, nội dung, chủ đề cần phân tích, nghệ thuật đặc sắc của bài thơ).
Ví dụ: Đề bài: Phân tích bài thơ “Khi mùa thu sang” của Trần Đăng Khoa
– Qua tìm hiểu đề bài ta có thể xác định:
+ Bài thơ cần phân tích: Khi mùa thu sang
+ Tác giả: Trần Đăng Khoa
+ Nội dung, chủ đề cần phân tích: Bức tranh thiên nhiên khi mùa thu đến thật đẹp, sinh động, ngộ nghĩnh, đáng yêu và hình ảnh cuộc sống, con người ở thôn quê thật bình dị, ấm áp.
+ Nghệ thuật đặc sắc: thể thơ (thơ sáu chữ), cách gieo vần (vần chân và vần cách), biện pháp tu từ (Liệt kê, nhân hóa…)
- Bước 2: Lập dàn ý cho bài phân tích
– Việc lập dàn ý cho bài phân tích không chỉ giúp các em ghi lại những ý tưởng, nội dung cho bài phân tích mà còn hỗ trợ trực tiếp cho quá trình viết bài. Dựa vào dàn ý đã xây dựng, các em có thể triển khai bài phân tích theo đúng dự kiến/ý tưởng ban đầu; Đảm bảo tính mạch lạc, thống nhất của bài viết, tránh bỏ sót những nội dung quan trọng.
– Các em có thể xây dựng dàn ý dựa trên cấu trúc 3 phần:
* Mở bài: Giới thiệu về đối tượng cần phân tích (Có thể giới thiệu trực tiếp hoặc gián tiếp).
*Thân bài: Triển khai nội dung bài phân tích. Lần lượt phân tích bài thơ theo hệ thống ý dự kiến (mạch cảm xúc hay theo phương diện nội dung và nghệ thuật)
– Dạng phổ biến nhất là phân tích theo phương diện nội dung và nghệ thuật:
+ Phân tích nội dung và chủ đề của bài thơ
+ Phân tích về phương diện nghệ thuật của bài thơ (Nêu cảm nhận về thể thơ, vần, nhịp và tác dụng của thể thơ trong việc biểu đạt nội dung. Các yếu tố miêu tả, hình ảnh nổi bật, chi tiết, từ ngữ đặc sắc, biện pháp tu từ,..được sử dụng.
*Kết bài: Khẳng định được vị trí, ý nghĩa của bài thơ.
- Bước 3: Viết bài.
– Đọc lại bài thơ, đoạn thơ:
– Đọc lại bài thơ, đoạn thơ để tái hiện kiến thức, khơi dậy cảm hứng cho bài phân tích. Những cảm nhận về hình ảnh, chi tiết đặc sắc trong bài thơ sẽ là tư liệu, nguồn cảm hứng quan trọng cho các em khi phân tích.
– Phân tích chi tiết từng câu thơ, ý thơ:
+ Đi sâu phân tích từng câu thơ, ý thơ, tìm ra nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong câu thơ ấy giúp cho bài phân tích được chi tiết, sâu sắc hơn. Khi phân tích một bài thơ dài, các em có thể phân tích theo khổ thơ, sau khi khái quát nội dung của khổ thơ ấy, các em có thể lựa chọn một vài câu thơ đặc sắc hoặc ấn tượng nhất trong cảm nhận của mình để phân tích. Đối với đoạn thơ, các em có thể chia tách thành từng ý nhỏ, có thể theo câu thơ hoặc theo nội dung của đoạn thơ.
+ Phân tích bài thơ các em cũng có thể dựa vào cấu trúc của thể thơ. Chẳng hạn thơ tứ tuyệt có cấu trúc: Khai-thừa-chuyển-hợp; thể thơ thất ngôn bát cú có thể phân tích theo 2 cặp câu, thơ tự do phân tích theo mạch cảm xúc…
– Đưa ra nhận định, đánh giá bài thơ:
Nhận định, đánh giá ý chính của bài thơ cũng là một bước quan trọng giúp cho bài viết được chặt chẽ, logic, mạch lạc hơn.
+ B1: Đánh giá đoạn thơ ấy hay hoặc dở ở chỗ nào(nếu hay thì nó xúc động ở tình cảm, tư tưởng gì?)
+ B2: Vì sao (Cái hay, cái độc đáo được toát nên bởi nội dung như thế nào, nhờ những phương diện nghệ thuật nào?)
+ B3: Tác dụng: Khẳng định vai trò đóng góp của đoạn thơ đối với sự thành công của tác phẩm, tác giả, đối với nền văn học dân tộc, đối với cuộc sống… (Tùy từng trường hợp cụ thể)
* Lưu ý.
– Khi viết lựa chọn những từ ngữ chính xác, phù hợp thể hiện được quan điểm và tình cảm của người viết, tránh sử dụng những từ ngữ sáo rỗng, cầu kì. Nên sử dụng hiệu quả các thông tin ngoài tác phẩm (nếu có), giúp cho việc phân tích các giá trị của tác phẩm được rõ ràng, nổi bật hơn
– Khi viết bài, cần bám sát dàn ý đã lập; sử dụng đa dạng các hình thức trích dẫn; kết hợp phân tích với nhận xét, đánh giá
– Sử dụng từ ngữ chính xác, chọn lọc; diễn đạt sáng rõ, thể hiện được cảm xúc của người viết
– Chú ý sự khác nhau về yêu cầu, mục đích của kiểu bài ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ và kiểu bài phân tích một bài thơ
- Bước 4. Đọc lại bài (3 phút – nếu còn thời gian)
– Chú ý đọc lại những câu mở bài, thân bài, kết kết xem đã viết đúng, rõ ràng chưa.
– Soát lỗi chính tả.
– Nếu có lỗi cần sửa thì gạch đi sửa lại thật sạch sẽ.
- V. DÀN Ý CHUNG PHÂN TÍCH THƠ ( LỚP 9 )
MẪU MỞ BÀI CHUNG:
Một nhà thơ vĩ đại người Nga đã từng tâm niệm rằng: “thơ ca bắt nguồn từ những âm vang của tâm hồn”. Thật vậy, thơ ca muôn đời là những thổn thức, những nỗi niềm chân thành cất lên từ trái tim đa cảm của người nghệ sĩ. Khi đến với thế giới nghệ thuật trong thi phẩm………của …..ta sẽ bắt gặp những thanh âm, giai điệu………(đẹp đẽ của thiên nhiên/ cao đẹp của con người/ hào hùng, lãng mạn của người lính/ vui tươi của cuộc sống/ đậm đà tình yêu/ tình nghĩa với…..của….) đầy xúc động. Nhất là trong trích đoạn……. vẻ đẹp……….hiện ra thật …… (ngọt ngào/đắm say/ da diết/ đầm ấm/ kỳ diệu/ đáng ngưỡng mộ/ tự hào/ cao cả/ vĩ đại/ oai hùng/ thơ mộng/…….).
CÁCH TRÌNH BÀY THÂN BÀI:
LUẬN ĐIỂM 1: KHÁI QUÁT
Nhà thơ….tên đầy đủ….là người con của vùng đất…(quê). Ông/ bà trưởng thành/ thành công từ cuộc kháng chiến chống…..(hoặc từ thời kì văn học…..). Ông/ bà cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam chuyên viết về …… (đề tài và thể loại) với những vần thơ………..(phong cách sáng tác). Thi phẩm …….là viên ngọc quý trong sự nghiệp sáng tác của tác giả cũng là bông hoa đẹp trong khu vườn thơ ca Việt nam. Bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm người đọc xúc động trước……(vẻ đẹp thiên nhiên/ vẻ đẹp con người/ vẻ đẹp cuộc sống…tùy bài). Điều này được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích ….(nêu tên khổ thơ/ hoặc bí quá viết đoạn trích trên)
LUẬN ĐIỂM 2:
Khi mở ra cánh cửa bài thơ người đọc ngỡ ngàng trước một…………….(khái quát nội dung những khổ trước hoặc cả bài)……….Trước tiên là một nét vẽ thật khéo của người nghệ sĩ về……………( nêu tên luận điểm mình phân tích)
Trích thơ
Bằng sự khéo léo trong việc sử dụng nghệ thuật ….( nếu có nghệ thuật và phải ghi hình ảnh ra/ nếu không có nghệ thuật thì ghi là hình ảnh/ từ ngữ…) đã làm hiện ra………(phân tích chi tiết các ý ra, ý nào xong ý đấy rồi mới chuyển sang ý khác ko trình bày lộn xộn). Có thể thấy rằng ……….(tên tác giả hoặc từ thay thế ko lặp từ) viết về …..chỉ bằng tài năng mà bằng cả tâm hồn tinh tế và tình yêu tha thiết với…………….. (Phần này các bạn khá giỏi liên hệ các tác phẩm khác hoặc sử dụng lý luận văn học) (ví dụ: ai bảo thơ là câu chữ thơ là “tim can, là máu nhỏ của người cầm bút như Hàn Mặc Tử đã từng thốt lên: “ Mỗi lời thơ đều dính não cân ta”.
LUẬN ĐIỂM 3:
Đâu chỉ có …………. ( Nhắc lại ý trên để chuyển sang ý mới) thế giới nghệ thuật trong đoạn thơ / bài thơ còn thu hút người đọc bởi………………. (nêu tên luận điểm mới).
trích thơ
Không dùng từ mỹ miều, cầu kì mà chỉ với những nét chạm/ cái vẩy bút…. nhẹ/ tinh tế……… người thợ tài hoa đã khắc họa nên một ……… (Cái này mình phân tích cái gì ghi cái đó ra, ví dụ: khắc họa nên một bức tượng đài kì vĩ về người lính/ bức họa tinh thần/ bức tranh phong cảnh………..). Qua các hình ảnh/ sự phối hợp hài hòa giữ các phép tu từ/ sử dụng thành công nghệ thuật……. (phân tích chi tiết). Nếu lắng lòng mình lại mới thấy rằng,………… đúng là………… thật đáng để mỗi chúng ta……… và cái tài cái tâm của ……… thật đáng ………… (Phần này các bạn khá giỏi liên hệ các tác phẩm khác hoặc sử dụng lý luận văn học)
LUẬN ĐIỂM 4:
Sẽ thật thiếu sót nếu ta không nhăc đến cái hay/đẹp/ tình về……… trong khổ thơ/đoạn thơ/ bài thơ. Nó là một nét họa hoàn hảo cho bức họa về………..
Trích thơ
Phải chăng người nghệ sĩ tài ba này đã dùng máu từ trái tim mình để viết về vẻ đẹp của…………. với tất cả tình yêu và sự ngưỡng mộ/ tự hào………….. dáng vẻ/hình ảnh/….. hiện ra thật………… (PHÂN TÍCH)
LIÊN HỆ/ NÂNG CAO: Đây đâu phải người thường viết mà là “thần mượn tay người viết” đấy thôi.
NẾU CÒN LUẬN ĐIỂM THÌ LÀM TIẾP NHƯNG THƯỜNG ĐỀ KO DÀI THẾ ĐÂU
LUẬN ĐIỂM CUỐI: NHẬN XÉT/ ĐÁNH GIÁ: NỘI DUNG/ Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG:
_ Bằng sự tài hoa và tâm hồn tinh tế, giàu yêu thương/…….nhà thơ đã tạo nên một …………thật đẹp và xúc động vương vấn, luyến lưu mãi trong lòng người đọc.
- Để làm nên thành công đó nhà thơ đã vận dụng khéo léo thể thơ…… giàu …. cùng với nhịp điệu…… cùng với đó là việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh. ………… càng giúp cho…………… Đặc biệt là sự kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ…….. đã làm nên một…………
MẦU KẾT BÀI CHUNG
Khép lại những câu (thơ/ trang truyện) người đọc vẫn bồi hồi mãi với những ………… (nhân vật thì viết về vẻ đẹp nhân vật, thiên nhiên viết vẻ đẹp thiên nhiên, và tấm lòng, tình cảm của tác giả với cái gì đó. cái này linh động theo bài, bài viết cái gì nhắc lại cái đó) và khơi trong ta bao nỗi niềm về …..( Mở rộng cái trong bài vừa viết theo hướng về cuộc sống hiện nay) . Bởi vậy em luôn tâm niệm rằng muốn…hãy…. . (Mỗi người hãy là một một chú ong nhỏ góp nhặt những giọt tinh hoa đẹp đẽ nhất dâng đời)
- Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về tác giả, tác phẩm văn học cần phân tích.
- Thân bài
- Giới thiệu chung
– Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác (nếu có)
– Thể thơ: bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật
– Ý nghĩa nhan đề bài thơ
– Đề tài của bài thơ
- Phân tích đặc điểm nội dung:
– Hình tượng thơ: bức tranh thiên nhiên, con người,…
– Tâm trạng, cảm xúc của tác giả gửi gắm qua bài thơ
– Khái quát chủ đề của bài thơ.
- Phân tích một số nét đặc sắc về nghệ thuật:
– Cách sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú và tứ tuyệt Đường luật (theo mô hình chuẩn mực hay có sự cách tân).
– Những nét đặc sắc trong nghệ thuật tả cảnh, tả tình.
– Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ (từ ngữ, cấu trúc thơ, biện pháp tu từ…)
- Kết bài
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm văn học đã phân tích.
MẪU MỞ BÀI
VD: Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ một tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn/nhà thơ ABC đã cất lên tiếng lòng mình, để linh hồn của tác phẩm XYZ trường tồn cùng năm tháng. Tác phẩm …….là một áng thi ca/ văn chương giàu giá trị trong đó đoạn trích ……….là phần đặc sắc nhất khi làm hiện lên được …….qua những hình tượng ………….đắt giá.
VD 1: Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn khi chiều tàn khuất lối? Ta rung động trước đóa hoa đẹp lung linh dưới ánh mặt trời hay những cánh đồng đã úa tàn không còn sinh khí? Và ta cũng cuộc đời là hành trình đi tìm cái đẹp và luôn vì cái đẹp mà tồn tại. Xuất phát từ đặc trưng của văn học, đã là văn chương thì phải đẹp, đẹp là chức năng hàng đầu, cũng là đạo đức của văn chương. Chính vì vậy, … đã khẳng định:
VD 2: Ánh nắng chói chang của mặt trời là biểu trưng của sự sống của muôn loài. Ánh trăng dịu mát là người bạn tri âm tri kỷ của tuổi thơ bình yên, là người tình trăm năm của thi nhân. Nhưng có lẽ ánh sáng ánh sáng rực rỡ nhất khiến người ta rung động sâu sắc nhất là ánh sáng của tình người, của niềm tin, hy vọng ẩn chứa trong tác phấm văn chương. Nó vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn với đời. Minh chứng cho điều đó là tác phẩm XYZ, tác giả ABC. Bài thơ/ Truyện ngắn…đã để lại những khắc khoải, trao gửi bao ngậm ngùi đồng cảm về ………………… tới bạn đọc hôm nay.
VD 1: Thời gian có thể qua đi, và bốn mùa có thể tuần hoàn. Nhưng những gì là văn, thơ thì vẫn luôn còn nguyên vẹn giá trị với thời gian. Tác phẩm B của nhà văn/nhà thơ A là một trong số đó. Sức sống của truyện ngắn này chính là……(nêu giá trị của tác phẩm qua nhân vật nào đó)
VD 2 : M. Goóc-ki từng khẳng định: “Văn học là nhân học”. Thật vậy các tác phẩm văn học luôn gửi gắm những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Tác phẩm B của nhà văn/nhà thơ A là một trong số đó. Khi đọc tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được (vấn đề cần nghị luận, hoặc nhân vật…..).
VD 3 : Đại thi hào Nga – Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Chính nhà thơ/ nhà văn A đã để tiếng lòng của mình được cất lên qua tác phẩm B. Khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã cảm thấy ấn tượng với… (vấn đề cần nghị luận)
- THỰC HÀNH VIẾT
ĐỀ 1. Phân tích bài thơ “Bài học đầu cho con” ( Quê hương) của nhà thơ Đỗ Trung Quân?
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ…
DÀN Ý
Mở bài | – Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm và nêu cảm nghĩ chung về bài thơ.
– Đỗ Trung Quân là nhà thơ, nhà báo, người dẫn chương trình trong các chương trình âm nhạc của bạn bè hay diễn viên. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc và được khán giả yêu thích. – Bài thơ “Quê hương” của ông là một trong những tác phẩm đã đi vào trí nhớ của nhiều người dân Việt Nam với những lời thơ đậm chất trữ tình và sâu lắng, “Quê hương” của Đỗ Trung Quân là những hình ảnh quen thuộc, thân thương nhất về nơi “chôn rau cắt rốn” của mỗi người. Bài thơ đã được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc và trở thành ca khúc nổi tiếng. – Bài thơ “ Quê hương là tiếng nói của tình yêu quê hương đất nước tha thiết để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. |
Thân bài | a. Phân tích nội dung đặc sắc của tác phẩm.
Bài thơ “ Quê hương” của Đỗ Trung Quân là tiếng nói của tình yêu quê hương đất nước tha thiết. -Tình quê đậm đà, tha thiết được ngân nga trong bài thơ “Quê hương” – một trong những giai điệu ngọt ngào và dịu dàng dành cho tuổi thơ êm dịu. “Quê hương là gì hả mẹ …………………… Ai đi xa cũng nhớ nhiều?” – Quê hương là những nỗi nhớ mong, là những điều giản dị mà ai đi xa cũng nhớ nhiều. Quê hương quá đỗi gần gũi, thân thương. Quê hương ở trong tuổi thơ, trong câu chuyện bà kể, trong lời hát mẹ ru, trong trái cây dịu mát. Quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con đường đi học. …Quê hương có thể nhìn thấy, có thể cầm nắm, có thể thưởng thức được mỗi ngày. – Quê hương – nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi những người thân yêu của ta ở đó, nơi ta đã đi qua thời thơ dại với con đường đến trường rợp bướm vàng bay: Quê hương là chùm khế ngọt – Quê hương ở ngay trong trái tim mỗi con người. Quê hương là máu thịt ta, kể từ khi lọt lòng, ta đã trao cho nó nửa linh hồn của mình vì vậy đi đâu cũng nhớ, cũng thương. – Quê hương xuất hiện bình dị như con diều biếc chao nghiêng trên bầu trời tuổi thơ. Quê hương còn là những cánh đồng bát ngát hương lúa, là con đò nhỏ khua nước bên dòng sông thơ mộng. Những hình ảnh được nhà thơ sử dụng thật bình dị mà vô cùng tinh tế. “Quê hương là con diều biếc … Êm đềm khua nước ven sông” – Trong ta ai cũng có một quê hương, một vùng đất để khi đi xa mà thương, mà nhớ, một vùng đất để khi trưởng thành nhìn lại một thời của tuổi thơ với những kỷ niệm ngọt ngào…quê hương là những gì gắn bó, gần gũi, thân thuộc nhất với mỗi người, quê hương cho ta cảm xúc ngọt ngào, cho ta sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn, cho ta sự yên ả, ấm êm như vòng tay ấm của bà, của mẹ để từ đó ta lớn lên, thành người. – Quê hương là ánh trăng tỏ, là hình ảnh hoa cau rụng trắng thềm, là tất cả những gì thân thương, trìu mến khiến ai đi xa cũng nhớ về. Hơi thở ấm nồng của quê hương luôn bên ta, ru ta vào giấc ngủ bình yên, đem đến cho ta sự thanh thản, dịu êm: “Quê hương là cầu tre nhỏ … Bay trong giấc ngủ đêm hè” – Những điều thân thuộc, những kỉ niệm dung dị và những ký ức dịu êm chính là quê hương, là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người. Bài thơ “Quê hương” của Đỗ Trung Quân cũng đẹp tựa như thế với hoa bí vàng, giậu mồng tơi, là những cánh hoa râm bụt, là đóa sen trắng tinh khiết. “Quê hương là vàng hoa bí … Màu hoa sen trắng tinh khôi – Về với quê hương, như về với ký ức, như về với bản chất con người thuần túy, quê hương cho ta sự yên ả, tĩnh lặng, sự bình dị, thanh tịnh. Với ta, quê hương luôn gắn với vòng tay của bà, của mẹ, là nụ hôn, là giọt nước mắt. Ta muốn yêu, yêu hết tất cả mọi thứ của mảnh đất này! – Quê hương trong thơ của Đỗ Trung Quân không chỉ đơn thuần là những hình ảnh của một vùng quê sông nước, mà còn chất chứa tâm hồn dân tộc. Bài thơ giàu nhạc điệu và cảm xúc nên đã được phổ nhạc thành bài hát quen thuộc “Quê hương”. Mỗi người Việt Nam chúng ta thật xúc động khi nghe bài hát với giai điệu ngọt ngào này.. Quê hương mỗi người chỉ một ….. Quê hương nếu ai không nhớ… – Quê hương ấm áp, ngọt ngào như dòng sữa mẹ, nuôi lớn ta từng ngày, từng ngày. Từ “chỉ một” như muốn nhắc nhở chúng ta, quê hương là duy nhất, nếu ai không nhớ quê hương, nhớ về cội nguồn, gốc rễ, thì hẳn “ sẽ không lớn nổi thành người” – không bao giờ trưởng thành được. – Quê hương được so sánh với mẹ vì đó là nơi ta được sinh ra, được nuôi dưỡng lớn khôn, giống như người mẹ đã sinh thành nuôi ta khôn lớn, trưởng thành. Lời thơ nhắc nhở mỗi chúng ta hãy luôn sống và làm việc có ích, hãy biết yêu quê hương xứ sở, vì quê hương là mẹ và mẹ chính là quê hương và cũng bởi “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn” (nhà thơ Chế Lan Viên). b. Phân tích những đặc sắc về hình thức nghệ thuật. – Nhà thơ đã sử dụng biện pháp điệp ngữ, điệp cấu trúc, biện pháp liệt kê, cấu trúc thơ vắt dòng rất đặc sắc. Khung cảnh làng quê trên mọi miền Tổ quốc Việt Nam hiện lên thân thương, giản dị mà xúc động lòng người.Những cặp câu thơ dần hiện lên như những thước phim quay chậm, cảnh vật có gần có xa, có mờ có tỏ, có lớn có nhỏ. – Nhịp thơ đều đặn, nhịp nhàng, gần như cả bài thơ chỉ có một nhịp 2/4. Cả ba khổ thơ với những câu thơ cùng một nhịp, kết cấu giống nhau nhưng vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát vô cùng. Phải chăng, vẻ đẹp của những hình ảnh thơ đã làm cho người đọc quên đi hình thức bên ngoài của ngôn ngữ? Nhà thơ đã biến cái không thể thành cái có thể, và được độc giả nồng nhiệt đón nhận bằng một sự đồng cảm rất tự nhiên. – Nhà thơ đã cụ thể hoá cái trừu tượng bằng những hình ảnh sống động và hình ảnh so sánh đẹp: “Quê hương là chùm khế ngọt, đường đi học rợp bướm vàng bay, con diều biếc thả trên cánh đồng, con đò nhỏ khua nước ven sông, cầu tre nhỏ, nón lá nghiêng che, đêm trăng tỏ, hoa cau rụng trắng ngoài thềm”… |
Kết bài | – Khẳng định lại giá trị của bài thơ, nêu cảm xúc của cá nhân hoặc bức thông điệp mà tác giả muốn gửi tới mọi người. |
BÀI THAM KHẢO:
Đỗ Trung Quân là nhà thơ, nhà báo, người dẫn chương trình trong các chương trình âm nhạc của bạn bè hay diễn viên. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc và được khán giả yêu thích. Bài thơ “Quê hương” của ông là một trong những tác phẩm đã đi vào trí nhớ của nhiều người dân Việt Nam với những lời thơ đậm chất trữ tình và sâu lắng, “Quê hương” của Đỗ Trung Quân là những hình ảnh quen thuộc, thân thương nhất về nơi “chôn rau cắt rốn” của mỗi người. Bài thơ đã được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc và trở thành ca khúc nổi tiếng. Bài thơ “ Quê hương là tiếng nói của tình yêu quê hương đất nước tha thiết để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.
Nhà văn Ê-ren-bua đã từng nói “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Vôn ga, con sông Vôn ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Đúng như vậy, quê hương với mỗi người thật giản dị, thân thương. Yêu quê là yêu con đường đến trường, yêu những mái nhà tranh, yêu cánh đồng lúa chín… Tình yêu đất nước bao giờ cũng bắt nguồn từ tình yêu quê chân thành, giản dị như thế. Với Đỗ trung Quân quê hương cũng gần gũi, bình dị, thiết tha và qua lời ru của bà, của mẹ quê hương trở thành máu thịt, hoá thành tâm hồn của mỗi người yêu quê.Tình quê đậm đà, tha thiết được ngân nga trong bài thơ “Quê hương” – một trong những giai điệu ngọt ngào và dịu dàng dành cho tuổi thơ êm dịu.
“Quê hương là gì hả mẹ
Mà cô giáo dạy hãy yêu?
Quê hương là gì hả mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?”
Những vần thơ giản dị, nhẹ nhàng cất lên sao nghe quá đỗi thân thương. Một câu hỏi yêu của đứa con nhỏ mà sao nặng lòng đến thế. Quê hương là gì? Là những nỗi nhớ mong, là những điều giản dị mà ai đi xa cũng nhớ nhiều.Hai câu hỏi tu từ kết thúc câu sao nhẹ nhàng thắm thiết như chính những lời bỏ ngỏ cho những vần thơ sau.
Đọc bài thơ, nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra, quê hương sao quá đỗi gần gũi, thân thương. Nó ở trong tuổi thơ, trong câu chuyện bà kể, trong lời hát mẹ ru, trong trái cây dịu mát. Quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con đường đi học. Còn gì gần gũi hơn thế với mỗi người dân đất Việt! Quê hương vốn là vô hình, khó định nghĩa và khó có thể gợi ra được cụ thể, rõ ràng. Thế nhưng nhà thơ đã đưa ra cho ta một định nghĩa thật giản dị, biến cái vô hình thành cái hữu hình. Quê hương có thể nhìn thấy, có thể cầm nắm, có thể thưởng thức được mỗi ngày. Với tất cả chúng ta, quê hương là một thứ gì đó gần gũi đến lạ kì. Như khi ta ăn một trái lê, ngửi một bông hoa, vị thơm ngọt của nó gợi nhắc ta về với quê hương; nơi có những cánh đồng trải dài xa mãi, những bãi cỏ xanh thơm mùi thảo mộc, những chiều hoàng hôn bình yên, ta ngồi nhìn gió hát. Đấy là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi những người thân yêu của ta ở đó, nơi ta đã đi qua thời thơ dại với con đường đến trường “rợp bướm vàng bay”.
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
“Quê hương là chùm khế ngọt” – chùm khế ngọt nhỏ bé, ngọt mát, êm dịu, một thứ quà quê thanh đạm, bình dị, quá đỗi bình dị mà sao day dứt và ám ảnh? Có lẽ vị ngọt thanh của khế làm mát dịu lòng ta, trái khế ngọt mang hương vị của ca dao cổ tích, dư vị thắm thiết của tình nghĩa con người. Với chùm khế ngọt con người cảm nhận quê hương đầy đủ nhất bằng mọi giác quan. Tuổi thơ ai cũng trải qua những năm tháng tới trường. Con đường đi học đã trở thành người bạn tri kỉ. Hình ảnh “rợp bướm vàng bay” gợi cho ta những gì thân thương và trong sáng nhất của tuổi học trò.Quê hương là thế đó. Nhắm mắt lại ta như thấy quê hương đã ở đó rồi, ở ngay bên trong trái tim mỗi con người.Thật thế, quê hương như máu thịt ta, kể từ khi lọt lòng, ta đã trao cho nó nửa linh hồn của mình vì vậy đi đâu cũng nhớ, cũng thương.
Hình ảnh “con bướm vàng” cũng là một hình ảnh quen thuộc, đáng yêu, bình lặng của làng quê. Nhà thơ Giang Nam khi nhớ về tuổi thơ “Có những ngày trốn học đuổi bướm cạnh cầu ao/ Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc”, nhà thơ Huy Cận nhớ “Một buổi trưa không biết ở thời nào /Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao / Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ”.Với Đỗ Trung Quân, ở bài thơ “Quê hương”, hình ảnh con đường đi học “rợp bướm vàng bay” đẹp như một giấc mơ, đẹp như trong truyện cổ tích vậy.
Quê hương bình dị như con diều biếc chao nghiêng trên bầu trời tuổi thơ. Quê hương còn là những cánh đồng bát ngát hương lúa, là con đò nhỏ khua nước bên dòng sông thơ mộng. Những hình ảnh được nhà thơ sử dụng thật bình dị mà vô cùng tinh tế.
“Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông”
Trong ta ai cũng có một quê hương, một vùng đất để khi đi xa mà thương, mà nhớ, một vùng đất để khi trưởng thành nhìn lại một thời của tuổi thơ với những kỷ niệm ngọt ngào…quê hương là những gì gắn bó, gần gũi, thân thuộc nhất với mỗi người, quê hương cho ta cảm xúc ngọt ngào, cho ta sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn, cho ta sự yên ả, ấm êm như vòng tay ấm của bà, của mẹ để từ đó ta lớn lên, thành người. Quê hương là ánh trăng tỏ, là hình ảnh hoa cau rụng trắng thềm, là tất cả những gì thân thương, trìu mến khiến ai đi xa cũng nhớ về. Hơi thở ấm nồng của quê hương luôn bên ta, ru ta vào giấc ngủ bình yên, đem đến cho ta sự thanh thản, dịu êm:
“Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè”
Những điều thân thuộc, những kỉ niệm dung dị và những ký ức dịu êm chính là quê hương, là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người. Bài thơ “Quê hương” của Đỗ Trung Quân cũng đẹp tựa như thế với hoa bí vàng, giậu mồng tơi, là những cánh hoa râm bụt, là đóa sen trắng tinh khiết.
“Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Về với quê hương, như về với ký ức, như về với bản chất con người thuần túy, quê hương cho ta sự yên ả, tĩnh lặng, sự bình dị, thanh tịnh. Với ta, quê hương luôn gắn với vòng tay của bà, của mẹ, là nụ hôn, là giọt nước mắt. Ta muốn yêu, yêu hết tất cả mọi thứ của mảnh đất này! Quê hương trong thơ của Đỗ Trung Quân không chỉ đơn thuần là những hình ảnh của một vùng quê sông nước, mà còn chất chứa tâm hồn của dân tộc. Bài thơ giàu nhạc điệu và cảm xúc nên đã được phổ nhạc thành bài hát quen thuộc “Quê hương”. Mỗi người Việt Nam chúng ta thật xúc động khi nghe bài hát này..
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ…
“Quê hương” – hai tiếng “thiêng liêng” nhất của một đời người. Nó là mảnh đất chào đón sự khởi đầu của cuộc đời, một sinh linh. Con người ta không thể có hai quê hương cũng như không thể có hai người mẹ. Mảnh đất quê hương yêu dấu mà nơi ấy cho ta hạt gạo ta ăn, ngụm nước ta uống, là nơi đã đón nhận những bước chân chập chững đầu đời.Quê hương ấm áp, ngọt ngào như dòng sữa mẹ, nuôi lớn ta từng ngày, từng ngày. Với Đỗ Trung Quân “Quê hương” thân thương là thế, “yêu dấu là thế”. Từ “chỉ một” như muốn nhắc nhở chúng ta, quê hương là duy nhất, nếu ai không nhớ quê hương, nhớ về cội nguồn, gốc rễ, thì hẳn “ sẽ không lớn nổi thành người” – không bao giờ trưởng thành được.
Ba câu thơ kết bài như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng – một hình ảnh so sánh mang ý nghĩa sâu sắc. Quê hương được so sánh với mẹ vì đó là nơi ta được sinh ra, được nuôi dưỡng lớn khôn, giống như người mẹ đã sinh thành nuôi ta khôn lớn, trưởng thành. Vì vậy, nếu ai không yêu quê hương, không nhớ quê hương mình thì không bao giờ trưởng thành được. Lời thơ nhắc nhở mỗi chúng ta hãy luôn sống và làm việc có ích, hãy biết yêu quê hương xứ sở, vì quê hương là mẹ và mẹ chính là quê hương và cũng bởi “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn” (nhà thơ Chế Lan Viên).
“Quê hương” của Đỗ Trung Quân không chỉ là tiếng lòng thiết tha yêu quê hương mà còn để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi những hình thức nghệ thuật đặc sắc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp lặp từ ngữ, lặp cấu trúc ngữ pháp câu, biện pháp liệt kê, cấu trúc thơ vắt dòng rất đặc sắc. Khung cảnh làng quê trên mọi miền Tổ quốc Việt Nam hiện lên thân thương, giản dị mà xúc động lòng người.Những cặp câu thơ dần hiện lên như những thước phim quay chậm, cảnh vật có gần có xa, có mờ có tỏ, có lớn có nhỏ. Nhịp thơ đều đặn, nhịp nhàng, gần như cả bài thơ chỉ có một nhịp 2/4. Cả ba khổ thơ với những câu thơ cùng một nhịp, kết cấu giống nhau nhưng vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát vô cùng. Phải chăng, vẻ đẹp của những hình ảnh thơ đã làm cho người đọc quên đi hình thức bên ngoài của ngôn ngữ? Nhà thơ đã biến cái không thể thành cái có thể, và được độc giả nồng nhiệt đón nhận bằng một sự đồng cảm rất tự nhiên. Quê hương là một khái niệm trừu tượng, nhà thơ đã cụ thể hoá nó bằng những hình ảnh sống động và hình ảnh so sánh đẹp: “Quê hương là chùm khế ngọt, đường đi học rợp bướm vàng bay, con diều biếc thả trên cánh đồng, con đò nhỏ khua nước ven sông, cầu tre nhỏ, nón lá nghiêng che, đêm trăng tỏ, hoa cau rụng trắng ngoài thềm”…Nhưng tất cả những điều đó lại làm nên một hình ảnh quê hương đẹp đẽ, lung linh, trọn vẹn và thiêng liêng. Nhà thơ Đỗ Trung Quân chắc hẳn yêu quê lắm mới có những hình ảnh so sánh đẹp và dễ đi vào lòng người đến thế!
Người xưa nói “hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần” quả không sai. Với lòng yêu quê hương thiết tha, nhà thơ Đỗ Trung Quân đã vẽ lên bức tranh quê hương mang hồn quê, cảnh quê, người quê trong bài thơ “ Quê hương” bằng một ngọn bút có thần…
Tố Hữu từng nói: “Một bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật gan ruột”.Thơ ca là câu hát được vang lên và thăng hoa từ tận sâu nơi xúc cảm của người nghệ sĩ để rồi những tác phẩm được ra đời từ đó, thơ ca bắt rễ từ tiếng lòng của người cầm bút và được nhà thơ tinh chắt ngôn ngữ để dệt nên cây đàn muôn điệu làm say đắm lòng người. Với lòng yêu quê hương thiết tha, nhà thơ Đỗ Trung Quân đã vẽ lên bức tranh quê hương mang hồn quê, cảnh quê, người quê trong bài thơ “ Quê hương” bằng một ngọn bút có thần…
ĐỀ 2. Phân tích bài thơ “ Tổ quốc là tiếng mẹ ” của Nguyễn Việt chiến?
Tổ quốc là tiếng mẹ Ru ta từ trong nôi Qua nhọc nhằn năm tháng Nuôi lớn ta thành người Tổ quốc là mây trắng
Tổ quốc là cây lúa Chín vàng mùa ca dao Như dáng người thôn nữ Nghiêng vào mùa chiêm bao Tổ quốc là ngọn gió Trên đỉnh rừng Vị Xuyên Phất lên trong máu đỏ Bao anh hùng không tên |
Tổ quốc là sóng mặn
Trên cồn cào biển Đông Cát Hoàng Sa ghi hận Đá Trường Sa tạc lòng
Tổ quốc là tiếng trẻ Đánh vần trên non cao Qua mưa ngàn, lũ quét Mắt đỏ hoe đồng dao
Tổ quốc là câu hát Chảy bao miền sông quê Quan họ rồi ví dặm Nước non xưa vọng về
Tổ quốc là tiếng mẹ Trải bao mùa bão giông Thắp muôn ngọn lửa ấm Trên điệp trùng núi sông |
DÀN Ý
- Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Việt Chiến viết về nhiều đề tài: từ thiên nhiên đến tình yêu, từ quê hương tới chiến tranh, người lính, thân phận con người…nhưng lĩnh vực nào cũng đầy cảm xúc mới lạ, độc đáo. Trong đó, thành công hơn cả là đề tài biển đảo và Tổ quốc.
+ Thơ viết về biển đảo và tình yêu Tổ quốc của ông tràn đầy tình yêu thương, trìu mến với ngôn ngữ giản dị, trong trẻo, phù hợp với tình cảm sâu đậm.
+ Nhà thơ từng tâm sự: Bài thơ “Tổ quốc là tiếng mẹ” là bài thơ 5 chữ, tôi viết trong một tâm sự rất lớn đối với Tổ quốc Việt Nam”. In trong tập “ Tổ quốc nhìn từ biển” ( Năm 2015), bài thơ là tiếng lòng của những con dân đất Việt dành cho bà mẹ vĩ đại: Tổ Quốc!
- Phân tích
- Phân tích nội dung đặc sắc của tác phẩm
Bài thơ “ Tổ quốc là tiếng mẹ” của Nguyễn Việt Chiến là những suy ngẫm về hình tượng Tổ quốc thiêng liêng, cao đẹp.
– Hình tượng Tổ quốc là tượng đài cao đẹp nhất có cả chiều rộng của thời đại cả chiều sâu yêu nước, cả chiều cao của một đất nước từ trong vũng bùn nô lệ đã hiên ngang đứng dậy thắng quân thù. Anh hùng, dũng cảm vô song nhưng vẫn nhân ái, thiết tha; nhiều đau thương nhưng tươi đẹp, rạng ngời.
– Hình ảnh Tổ quốc trong bài thơ “Tổ quốc là tiếng mẹ” được Nguyễn Việt Chiến gắn với tiếng mẹ ngàn đời.Tổ quốc rộng dài trong cả không gian lẫn thời gian, rộng dài trong tình yêu vô biên của mỗi con người đối với Tổ quốc thân yêu.
– Nguyễn Việt Chiến đã nói hộ chúng ta về tình yêu Tổ quốc. Và ông đã cắt nghĩa cội nguồn ấy bắt nguồn từ hình ảnh mẹ thân thương, chịu thương chịu khó rồi mở rộng ra là hình ảnh con người, miền quê, nét văn hoá và những trang sử oai hùng của dân tộc.
+ Nhà thơ ví “ Tổ quốc là tiếng mẹ” gợi sự gần gũi hơn bao giờ hết bởi mẹ đã sinh thành ra chúng ta, đã nuôi nấng những người con của mình qua bao nhiêu gian lao vất vả trong cuộc đời. ..
Tổ quốc là tiếng mẹ
………………..
Nuôi lớn ta thành người
+Nhưng cái độc đáo hơn là ở chỗ, nhà thơ gợi nhắc chúng ta về bao người con đã ngã xuống, để có ngày hôm nay, họ đã hi sinh cho mùa xuân dân tộc:
Tổ quốc là mây trắng
…………………………….
Cho quê hương mãi còn.
+ Nhà thơ cảm nhận được những giông bão rình rập, những mất mát đau thương, những hiểm họa khôn lường đến với Tổ quốc và ông đã thể hiện tình yêu Tổ quốc bằng một thứ tình cảm máu thịt:
“Tổ quốc là ngọn gió
…………………
Bao anh hùng không tên”.
+ Tổ quốc không còn là dải đất, hình hài sông núi mà đã thành máu thịt, gắn liền với mỗi người con đặc biệt là những “ anh hùng không tên”. Họ đã hoá thân vào non sông Tổ quốc ngàn đời. Máu xương của họ đã hoà vào dải đất, hoà vào ngọn gió, cánh rừng để rồi họ mãi trường tồn cùng Tổ quốc dấu yêu.
– Tổ quốc trong thơ Nguyễn VIệt Chiến gắn với mọi miền đất nước, trải dài theo dải đất hình chữ S thân yêu, lặn vào trong từng ngọn lúa, nhành hoa. Tổ quốc thân thương, gần gũi biết bao và cũng mềm mại, uyển chuyển biết bao khi:
Tổ quốc là cây lúa
………….
Nghiêng vào mùa chiêm bao
– Ở một trạng thái khác, nhà thơ lại tạc nên một bức tượng hình Tổ quốc với những nét hào phóng quyến rũ, với ngút ngàn tươi sắc hình hài đất nước rộng lớn và cũng là ý chí sắt đá “ghi lòng tạc dạ” của bao người con đất Việt quyết giữ gìn bờ cõi, giữ gìn biển đảo quê hương:
Tổ quốc là sóng mặn
…………………..
Đá Hoàng Sa tạc lòng”.
– Thơ viết về đất nước của Nguyễn Việt Chiến bên cạnh giọng thơ cuộn chảy, hào sảng, giàu tính thế sự vẫn có những nốt trầm sâu thẳm, những trầm tư, nghĩ ngợi, những thao thiết lòng mình:
Tổ quốc là tiếng trẻ
………………..
Mắt đỏ hoe đồng bào
-Tổ Quốc Việt Nam thân yêu muôn đời trường tồn còn ngân vang khúc hát trẻ thơ, ngân vang câu hát chảy trong tâm thức muôn người, chảy trong mạch nguồn văn hoá từ ngàn xưa, trong câu quan họ ngọt ngào, câu ví dặm tha thiết. Câu hát đã ngân lên từ trái tim nhạy cảm, đồng vọng thiết tha, như muốn reo ca, hoà vào dòng chảy bất tận của những dòng sông, trải dài khắp mọi miền đất nước. Âm hưởng bài thơ bay xa, ngân vọng lại cho đến hôm nay và mãi mãi. Bởi đó không còn là thơ nữa, mà đó là nhịp xốn xang, huyết mạch của cuộc đời bất tận:
Tổ quốc là câu hát
…………………….
Nước non xưa vọng về
– “Tổ quốc là tiếng mẹ” là một trong những bài thơ thể hiện cái nhìn độc đáo của nhà thơ về Tổ quốc. Tổ quốc là người mẹ vĩ đại đã trải bao khó khăn gian khổ, gian lao vất vả nhọc nhằn, trải qua bao giông bão trong cuộc đời để nuôi ta khôn lớn thành người. Vì thế Tổ quốc thật thiêng liêng và vô cùng vĩ đại:
Tổ quốc là tiếng mẹ
……………..
Trên điệp trùng núi sông…
-> “Tổ quốc là tiếng mẹ” của Nguyễn Việt Chiến đã gửi gắm bạn đọc bức thông điệp sâu sắc về tình yêu Tổ quốc và tiếng mẹ ngàn đời. Tình yêu Tổ quốc là thứ tình cảm máu thịt – một tình yêu lớn, bao trùm mọi không gian, thời gian, bao trùm lên tất thảy từng tấc đất, từng vùng miền, từng con người…
- Phân tích những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm
Ngôn ngữ giản dị, chắt lọc, mạch thơ lúc hào hùng, sôi nổi khi trầm lắng ưu tư, có lúc lại dịu dàng, uyển chuyển; Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ được sử dụng linh hoạt…Tất cả đã tạo nên thi phẩm đẹp, có sức sống dạt dào trong lòng bạn đọc.
- Kết bài
– Khẳng định lại giá trị của bài thơ, nêu cảm xúc của cá nhân hoặc bức thông điệp mà tác giả muốn gửi tới mọi người.
BÀI THAM KHẢO
Nhà thơ Chế Lan Viên từng bộc bạch lòng mình khi viết về tình yêu Tổ quốc:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông”.
Tổ quốc là bà mẹ lớn nhất của chúng ta. Tổ quốc cũng là đề tài lớn nhất trong thơ ca nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Và hình tượng Tổ quốc là tượng đài cao đẹp nhất có cả chiều rộng của thời đại cả chiều sâu yêu nước, cả chiều cao của một đất nước từ trong vũng bùn nô lệ đã hiên ngang đứng dậy thắng quân thù. Anh hùng, dũng cảm vô song nhưng vẫn nhân ái thiết tha; nhiều đau thương nhưng tươi đẹp, rạng ngời. Điều đó được thể hiện sâu sắc dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Việt Chiến trong bài thơ “ Tổ quốc là tiếng mẹ”.
Đề tài thơ Nguyễn Việt Chiến rất đa dạng, rộng mở, từ thiên nhiên đến tình yêu, từ quê hương tới chiến tranh, người lính, thân phận con người…nhưng lĩnh vực nào cũng đầy cảm xúc mới lạ, độc đáo. Trong đó, thành công hơn cả là đề tài biển đảo và Tổ quốc. Thơ viết về biển đảo và tình yêu Tổ quốc của ông tràn đầy tình yêu thương, trìu mến với ngôn ngữ giản dị, trong trẻo, phù hợp với tình cảm sâu đậm của con người. Nhà thơ từng tâm sự: “Bài thơ “Tổ quốc là tiếng mẹ” là bài thơ 5 chữ, tôi viết trong một tâm sự rất lớn đối với Tổ quốc Việt Nam”. In trong tập “ Tổ quốc nhìn từ biển” ( Năm 2015), bài thơ là tiếng lòng của những con dân đất Việt dành cho bà mẹ vĩ đại: Tổ Quốc!
Hình ảnh Tổ quốc trong bài thơ “Tổ quốc là tiếng mẹ” được Nguyễn Việt Chiến gắn với tiếng mẹ ngàn đời, khiến cảm nhận về Tổ quốc của ông khác với các nhà thơ khác khi viết về đề tài này. Cấu tứ của bài thơ làm nền cho cảm xúc thăng hoa, âm hưởng thơ nhẹ nhàng, êm ái. Tổ quốc vì thế mà rộng dài trong cả không gian lẫn thời gian, rộng dài trong tình yêu vô biên của mỗi con người đối với Tổ quốc. Nguyễn Việt Chiến đã nói hộ chúng ta về tình yêu Tổ quốc. Và ông đã cắt nghĩa cội nguồn ấy bắt nguồn từ hình ảnh mẹ thân thương, chịu thương chịu khó rồi mở rộng ra là hình ảnh con người, miền quê, nét văn hoá và những trang sử oai hùng của dân tộc. Mạch thơ dào dạt cuộn chảy, yêu thương, lời thơ hàm súc, ngôn ngữ chắt lọc:
Tổ quốc là tiếng mẹ
Ru ta từ trong nôi
Qua nhọc nhằn năm tháng
Nuôi lớn ta thành người
Nhà thơ ví “ Tổ quốc là tiếng mẹ” gợi sự gần gũi hơn bao giờ hết bởi mẹ đã sinh thành ra chúng ta, đã nuôi nấng những người con của mình qua bao nhiêu gian lao vất vả trong cuộc đời. Còn gì thân thương, trìu mến hơn, ấm áp hơn tình mẹ dành cho con! Tiếng mẹ ngọt ngào ru ta từ khi còn nằm nôi, tiếng ru đã ôm ấp ru vỗ đời ta, để ta lớn khôn, trưởng thành và Tổ quốc chính là người mẹ vĩ đại ấy.
Nhưng cái độc đáo hơn là ở chỗ, nhà thơ gợi nhắc chúng ta về bao người con đã ngã xuống, để có ngày hôm nay, họ đã hi sinh cho mùa xuân dân tộc:
Tổ quốc là mây trắng
Trên ngút ngàn Trường Sơn
Bao người con ngã xuống
Cho quê hương mãi còn.
Nhà thơ cảm nhận được những giông bão rình rập, những mất mát đau thương, những hiểm họa khôn lường đến với Tổ quốc và ông đã thể hiện tình yêu Tổ quốc bằng một thứ tình cảm máu thịt:
“Tổ quốc là ngọn gió
Trên đỉnh rừng Vị Xuyên
Phất lên trong máu đỏ
Bao anh hùng không tên”.
Có thể nói, trong trái tim thi sĩ luôn thường trực một tình yêu Tổ quốc như là một điểm tựa tinh thần, một niềm kiêu hãnh. Lúc này, Tổ quốc không còn là dải đất, hình hài sông núi mà đã thành máu thịt, gắn liền với mỗi người con đặc biệt là những “ anh hùng không tên”. Họ đã hoá thân vào non sông Tổ quốc ngàn đời. Máu xương của họ đã hoà vào dải đất, hoà vào ngọn gió, cánh rừng để rồi họ mãi trường tồn cùng Tổ quốc dấu yêu.
Tổ quốc trong thơ Nguyễn VIệt Chiến gắn với mọi miền đất nước, trải dài theo dải đất hình chữ S thân yêu, lặn vào trong từng ngọn lúa, nhành hoa. Tổ quốc thân thương, gần gũi biết bao và cũng mềm mại, uyển chuyển biết bao khi “ Tổ quốc là cây lúa”, Tự ngàn đời nay, hình ảnh cây lúa là biểu tượng, là sức sống của vùng đất Việt nên Tổ quốc vì thế cũng dịu dàng, mênh mang, mở ra một bát ngát của đồng quê thôn Việt, bát ngát của những mùa màng ấm no; bát ngát của một bức tranh phong cảnh thiên nhiên quấn quýt với con người như tuôn chảy, khơi nguồn dòng suối ca dao, cổ tích:
Tổ quốc là cây lúa
Chín vàng mùa ca dao
Như dáng người thôn nữ
Nghiêng vào mùa chiêm bao
Ở một trạng thái khác, nhà thơ lại tạc nên một bức tượng hình Tổ quốc với những nét hào phóng quyến rũ, với ngút ngàn tươi sắc hình hài đất nước rộng lớn và cũng là ý chí sắt đá “ghi lòng tạc dạ” của bao người con đất Việt quyết giữ gìn bờ cõi, giữ gìn biển đảo quê hương:
Tổ quốc là sóng mặn
Trên cồn cào biển Đông
Cát Hoàng Sa ghi nhận
Đá Hoàng Sa tạc lòng”.
Đọc những câu thơ hào sảng khẳng định chủ quyền biển đảo quê hương trong bài thơ lại gợi nhớ về giai điệu thiết tha trong lời hát “Tổ quốc gọi tên mình” của Nguyễn Phan Quế Mai như một lời hiệu triệu của trái tim, của lòng yêu nước dâng trào, khi Biển Đông cuộn sóng: “Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình/ Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá/Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả/Nơi bão tố dập dờn giăng lưới bủa vây”. Một vẻ đẹp như “nước” và cũng không có sức mạnh diệu kỳ nào bằng “nước”. Đó cũng chính là cảm hứng nhân văn sống của dân tộc ta – một dân tộc lưng tựa dãy Trường Sơn như một dây cung nén căng, lại như một con đê trên bán đảo đối diện với Biển Đông bao sóng gió.
Thơ viết về đất nước của Nguyễn Việt Chiến bên cạnh giọng thơ cuộn chảy, hào sảng, giàu tính thế sự vẫn có những nốt trầm sâu thẳm, những trầm tư, nghĩ ngợi, những thao thiết lòng mình:
Tổ quốc là tiếng trẻ
Đánh vần trên non cao
Qua mưa ngàn, lũ quét
Mắt đỏ hoe đồng bào
Tổ Quốc Việt Nam thân yêu muôn đời trường tồn còn ngân vang khúc hát trẻ thơ, ngân vang câu hát chảy trong tâm thức muôn người, chảy trong mạch nguồn văn hoá từ ngàn xưa, trong câu quan họ ngọt ngào, câu ví dặm tha thiết. Câu hát đã ngân lên từ trái tim nhạy cảm, đồng vọng thiết tha, như muốn reo ca, hoà vào dòng chảy bất tận của những dòng sông, trải dài khắp mọi miền đất nước. Âm hưởng bài thơ bay xa, ngân vọng lại cho đến hôm nay và mãi mãi. Bởi đó không còn là thơ nữa, mà đó là nhịp xốn xang, huyết mạch của cuộc đời bất tận:
Tổ quốc là câu hát
Chảy bao miền sông quê
Quan họ rồi ví dặm
Nước non xưa vọng về
Nếu không có một tình yêu lớn đối với Tổ quốc thì không có một nhà thơ nào viết nổi những câu thơ lay động tâm hồn như vậy. Vì thế, bài thơ “Tổ quốc là tiếng mẹ” là một thông điệp về tình yêu Tổ quốc và tiếng mẹ ngàn đời! Có lẽ vì thế mà bài thơ đã được nhạc sĩ Văn Phượng phổ nhạc. Có thể nói, thơ và nhạc đã hòa quyện làm một, âm nhạc đã chắp cánh cho bài thơ. Nhà thơ và nhạc đã đồng cảm, đồng điệu, nét tài hoa của các nghệ sĩ đã làm cho lời thơ, lời hát có một sức sống mới kỳ diệu, được mọi người hân hoan, vui sướng đón nhận.
“Tổ quốc là tiếng mẹ” là một trong những bài thơ thể hiện cái nhìn độc đáo của nhà thơ về Tổ quốc. Tổ quốc là người mẹ vĩ đại đã trải bao khó khăn gian khổ, gian lao vất vẻ nhọc nhằn, trải qua bao giông bão trong cuộc đời để nuôi ta khôn lớn thành người, Vì thế Tổ quốc thật thiêng liêng và vô cùng vĩ đại. Nguyễn Việt Chiến đã thay chúng ta nói lên niềm tự hào, kiêu hãnh chính đáng về một Tổ quốc anh hùng, về tinh thần trách nhiệm công dân cao cả đối với Tổ quốc:
Tổ quốc là tiếng mẹ ; là mọi miền đất nước, ở đâu có mẹ ở đó có Tổ quốc. “Tổ quốc là tiếng mẹ” ấm áp thắp lên trong ta bao ngọn lửa ấm nồng nên khi nghĩ về Tổ quốc lòng ta như được thắp lên ngọn lửa hồng ấm áp, được sưởi ấm, chở che. Với cảm xúc cuồn cuộn mà sâu lắng, Tổ quốc trong thơ Nguyễn Việt Chiến hiện lên vừa gần gũi vừa thiêng liêng cao đẹp. “Tổ quốc là tiếng mẹ – Tiếng mẹ là tổ quốc”. Tổ quốc – tiếng mẹ hai hình ảnh ấy cứ hoà quyện, cứ bập bùng cháy sáng trong tình yêu nồng nàn của nhà thơ. Tổ quốc là cội nguồn thiêng liêng, là sức mạnh lớn lao, là lý tưởng cao đẹp…
“Tổ quốc là tiếng mẹ” của Nguyễn Việt Chiến đã gửi gắm bạn đọc bức thông điệp sâu sắc về tình yêu Tổ quốc và tiếng mẹ ngàn đời. Tổ quốc trong mỗi chúng ta rộng dài ở cả không gian lẫn thời gian, rộng dài trong tình yêu vô biên và niềm tự hào kiêu hãnh chính đáng về một Tổ quốc anh hùng. Tình yêu Tổ quốc là thứ tình cảm máu thịt – một tình yêu lớn, bao trùm mọi không gian, thời gian, bao trùm lên tất thảy từng tấc đất, từng vùng miền, từng con người…
Bài thơ “ Tổ quốc là tiếng mẹ” của Nguyễn Việt Chiến sử dụng những hình thức nghệ thuật đặc sắc: Ngôn ngữ giản dị, chắt lọc, mạch thơ lúc hào hùng, sôi nổi khi trầm lắng ưu tư, có lúc lại dịu dàng, uyển chuyển; Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ được sử dụng linh hoạt…Tất cả đã tạo nên thi phẩm đẹp, có sức sống dạt dào trong lòng bạn đọc.
“Thơ ca là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Con người và thời đại trong bài thơ “ Tổ quốc là tiếng mẹ” Nguyễn Việt Chiến chính là Tổ quốc thiêng liêng mà gần gũi. Hình ảnh, vóc dáng của Tổ Quốc hiện ra thân thuộc và trường tồn mãi muôn đời!
——————————————————
ĐỀ 4. Phân tích bài thơ “ Mẹ và Quả” của Nguyễn Khoa Điềm?
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng những giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?
Bài tham khảo
“Mẹ” là đề tài xuyên suốt chảy trong mạch ngầm thơ ca bao đời nay. Viết về mẹ với tất cả tình yêu thương và sự kính trọng đã có bao nhà thơ thể hiện rất thành công, trong dòng chảy ấy Nguyễn Khoa Điềm có một lối đi riêng bởi tìm được tứ thơ mới lạ, độc đáo, tạo được hiệu quả thẩm mỹ cho người đọc trong bài thơ “ Mẹ và quả”. Bài thơ đã gợi mở ấn tượng tương giao giữa hình ảnh người mẹ tảo tần, lam làm với thiên nhiên hoa trái theo nhịp chảy trôi của thời gian.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Lời thơ Nguyễn Khoa Điềm không hoa mỹ kiêu kỳ mà như lời tự sự, lời tâm tình nhẹ nhàng bình dị nhưng lại có giá trị lay thức, ám ảnh tâm tư bạn đọc lâu dài bởi những triết luận sâu sắc được chuyển hoá qua những hình tượng thơ độc đáo, những tứ thơ có tính phát hiện mới đầy ám ảnh. “Mẹ và quả” là một bài thơ giản dị nhưng gợi nhiều liên tưởng mang tính nhân văn sâu sắc.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mở đầu cho những dòng suy tư cảm xúc về mẹ bằng mấy lời tự sự, như lời tâm tình chia sẻ với chúng ta những kỷ niệm thân thương về mẹ, về mái ấm gia đình bao năm quây quần bên nhau.
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
Mở đầu bài thơ là lời kể giản dị về việc làm bình thường của mẹ – người trồng cây, gửi gắm vào cây những mong mỏi cho chúng lớn nhanh và đơm hoa kết trái. Những công việc vun trồng ngày này sang ngày khác, mùa này sang mùa khác của mẹ diễn ra có vẻ đơn giản, nhưng hàm chứa nhiều mong mỏi lớn lao của mẹ. Mẹ trông cậy vào thành quả tốt đẹp, khi đã dày công vun trồng chăm bón mẹ mong có được trái ngọt hoa thơm.Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã gợi ra mảnh vườn xanh tươi, gợi ra bóng dáng của mẹ ẩn hiện dưới giàn bí, len lỏi giữa những luống khoai, vồng ớt, hàng cà lam lũ, như Nguyễn Duy khi “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, mà hình dung bóng dáng của mẹ tất bật xót xa:
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa
Kết quả công lao khó nhọc của mẹ là “những mùa quả lặn rồi lại mọc” tiếp nối nhau, đem lại cuộc sống no đủ cho đàn con, cho gia đình. Những mùa quả “như mặt trời” rộ chín của cam vàng, ớt đỏ, bí ngô già; “khi như mặt trăng” trắng dịu màu hoa, xanh màu ngọc như quả cà, quả bầu, quả mướp. Lời thơ còn gợi ra một không gian thanh khiết, yên bình của chốn hương đồng gió nội quê nhà, giúp cho mỗi chúng ta tạm xa rời thế giới đô thị ồn ào, vội vã, xô bồ; tìm về quê quán ta xưa để được đắm mình trong hoài niệm tuổi thơ hạnh phúc, lâng lâng với dòng sữa ngọt ngào nuôi ta phần xác và lời ru ấm áp của mẹ bồi dưỡng phần hồn trong sáng thanh cao.
Từ vườn cây của mẹ, Nguyễn Khoa Điềm bắt nhịp tự nhiên sang “vườn người” với những nhận xét so sánh hóm hỉnh mà thâm trầm.
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng những giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Từ bàn tay chăm sóc chu đáo và tấm lòng yêu thương, quý mến của mẹ dành cho cây, cho con, nên tất cả đều phát triển tốt đẹp. Những đứa con lớn dần lên cả về thể chất lẫn đời sống tâm hồn; còn bí, bầu thì lớn xuống. Tất cả đều là sự kết tinh bao nhọc nhằn lao khổ của mẹ. Nhà thơ đã có một liên tưởng thú vị mang theo tấm lòng biết ơn trân trọng dành cho mẹ khi hình dung bí, bầu “chúng mang dáng những giọt mồ hôi mặn/Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi”. Có một thứ quy luật tuần hoàn của sự sống, lại cũng có một thứ quy luật của lòng người biết tri ân trời đất. Và, sự hiện hữu của hình ảnh người mẹ : “hái được” hay “vun trồng” những mùa quả mới, đẹp một vẻ đẹp bình dị và lớn lao làm sao !
Nguyễn Khoa điềm có cách chuyển dịch ngữ nghĩa và sắc thái của ngôn từ thật thú vị và cũng thật sâu xa. Nếu như ở khổ thơ đầu hàm chứa cách nhìn xuất phát từ tấm lòng biết ơn của người con với tạo hóa và với mẹ; Thì, đến khổ thơ thứ hai là sự lên tiếng của lòng con hướng về mẹ.Từ chuyện bầu bí, mạch thơ chuyển hẳn sang chuyện người con. Dòng ý thức của nhà thơ, với tư cách là một đứa con, ông băn khoăn lo lắng khi “mẹ già như chuối chín cây” mà mình vẫn còn là thứ quả non xanh.
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?
Trên đời này, ai trồng cây mà không mong thu hái mùa quả ngọt. Cây năm nào cũng có quả, mất mùa này còn hy vọng mùa sau. Còn những đứa con là thứ quả vô giá mà người mẹ chăm chút mòn mỏi qua bao năm tháng mới hy vọng đến độ chín – mới chín chắn – vững vàng, thành đạt. Trong góc nhìn quan tâm, bao dung của người mẹ, những đứa con dù tuổi đã lớn nhưng biết đâu vẫn nông nổi, dại khờ nên mẹ luôn dõi theo con từng bước.Điều quan trọng hơn là những đứa con cần hiểu niềm hạnh phúc lớn lao của cha mẹ là được chứng kiến sự thành đạt của các con. Trách nhiệm của những người con là phải tu dưỡng, học tập, rèn luyện để trở thành người có nhân cách có đạo đức, có văn hoá, có nghề nghiệp vững chắc, để mẹ yên lòng khi bàn tay đã mỏi. Đó là sự báo hiếu ý nghĩa nhất. Nhà thơ đã sử dụng phép nói giảm, nói tránh như “ngày bàn tay mẹ mỏi” mà “mình vẫn còn một thứ quả non xanh” làm cho ý thơ nghe có vẻ nhẹ; nhưng thực ra nó có sức nặng lay thức tất cả chúng ta. Những đứa con trên cõi đời này hãy sống sao cho mẹ yên lòng thanh thản. Đừng tự biến mình thành thứ quả sâu, quả độc làm đau lòng mẹ; rồi khi cài lên ngực mình bông hồng trắng, mà hối hận thì đã quá muộn màng!
Vần thơ “Mẹ và quả” ngân lên như lời thủ thỉ, tâm sự giản dị, chân thành của Nguyễn Khoa Điềm với mỗi chúng ta về người mẹ kính yêu. Nhưng dư âm của nó đã tạo ra những con sóng lan tỏa lâu dài trong trường tình cảm, trong ý thức của bạn đọc, từ đó mà mỗi người cần phải biết sống sao cho đúng nghĩa một con người ân tình hiếu thảo. Bài thơ của Nguyễn Khoa điềm giọng điệu thì tự nhiên mà thực sự lại dụng công, hàm súc trong ý tưởng gửi gắm. Bởi, “Mẹ và quả” tỏa ra hai chiều cảm xúc và ý tưởng. Nếu như ở hai khổ thơ đầu, hình ảnh về “quả”, gợi sự sinh thành của quả cây, hoa trái tự nhiên; Thì,thật bất ngờ trong cách diễn tả hình ảnh “quả” trong khổ thơ kết, lại gợi sự liên tưởng tới thứ Quả-Người, còn “non xanh” theo năm tháng : “ Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái/Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?” Những lời tự bạch của chủ thể trữ tình, hóa ra lại thành những lời tự thú chân thành và cảm động của tình Tử-Mẫu trước bước đi lặng lẽ mà cũng thật nghiệt ngã của thời gian. Bài thơ, cũng vì thế vừa là lời tâm tình, vừa đậm đà và thấm thía chất triết luận – Nhân sinh. Mà, khó có thể tường minh ngọn ngành khi câu chữ khép lại…
“ Mẹ và quả” của Nguyễn Khoa Điềm đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi những hình thức nghệ thuật đặc sắc. Bài thơ chia làm ba khổ, tất cả gồm 12 dòng thơ với âm lượng mỗi dòng không đều nhau (5 dòng 7 chữ, 7 dòng 8 chữ). Giai điệu của bài thơ không mượt mà, du dương bởi tác giả ít quan tâm đến việc phối thanh, gieo vần; chủ yếu nhà thơ muốn bày tỏ cảm xúc chân thành, những suy nghĩ nghiêm túc gửi vào trong những hình ảnh thơ bình dị làm chúng ta nhớ mãi. Đặc biệt, ăm ắp dâng đầy trong ba khổ của bài thơ là vẻ đẹp của nghệ thuật tu từ so sánh và liên tưởng thú vị. Thêm vào đó, dùng cách điệp lại hình ảnh “Những mùa quả”, nhà thơ vừa diễn tả mùa cây trái theo thời gian, lại vừa dựng nên hình ảnh lượm hái của con người. Mùa quả cũng vì thế đồng hiện với hình ảnh người mẹ theo những tháng năm qua. Nhất là hình ảnh “quả lặn rồi lại mọc”, được sử dụng thật khéo và cũng thật tài tình. Đấy là nhịp đi như “mùa đi nhịp hải hà” (Nguyễn Xuân Sanh),lại mở tiếp ra liên tưởng sáng tạo, khi nhà thơ đem quả ra mà đối sánh với mặt trời, mặt trăng.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn bày tỏ tình cảm yêu thương và biết ơn công lao sinh thành và nuôi dưỡng của mình đến người mẹ kính yêu qua những vần thơ tha thiết trong “ Mẹ và quả”. Đồng thời, thi phẩm cũng mang một làn sóng lan tỏa yêu thương nhắn nhủ đến bạn đọc hãy yêu thương những bậc sinh thành của mình khi còn có thể.
ĐỀ 5. Phân tích bài thơ “ Hỏi” của Hữu Thỉnh
Tôi hỏi đất:
– Đất sống với đất như thế nào?
– Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước:
– Nước sống với nước như thế nào?
– Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ:
– Cỏ sống với cỏ như thế nào?
– Chúng tôi đan vào nhau
Làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
(“ Hỏi” – Hữu Thỉnh, Trích Thư mùa đông)
Bài tham khảo
Thơ Hữu Thỉnh viết về thiên nhiên thì đậm chất trữ tình còn viết về cuộc sống con người lại đậm chất triết lí, đó là chuyện cuộc đời sinh sắc sống động! Là máu thịt chứ không phải là giấy mực. Hữu Thỉnh có được một phong cách chắc chắn, vững vàng, đôi khi thô ráp, nhưng thường khắc tạc sâu đậm. Thơ Hữu Thỉnh là tiếng lòng tha thiết với đời, một ngòi bút tận tâm và đôn hậu. Cùng với chất trữ tình, mạch nguồn trữ tình – vốn là hồn cốt thơ Hữu Thỉnh, tính triết luận sâu sắc và cảm xúc đậm đà trong thơ Hữu Thỉnh quyện hoà, đan xen, cùng nảy nở từ cội nguồn truyền thống. Bài thơ “ Hỏi” là một bài thơ đậm chất triết lý, chứa đựng nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.
Người đọc yêu mến thơ Hữu Thỉnh vì cách cảm, cách nghĩ gắn bó nhiều với tâm thức dân gian. Những câu thơ cảm động thấm thía, gọi dậy tâm tình của thảo mộc, tìm cách giao cảm với hồn quê, hồn đất, hướng về những gì thiết thân gắn bó nhất, nhưng ngàn đời vẫn linh thiêng… Bài thơ Hỏi của Hữu Thỉnh được viết năm 1992, lúc này tác giả đã năm mươi tuổi. Sống trọn một nửa thế kỷ, ở vào cái tuổi “tri thiên mệnh” như Khổng Tử nói, Hữu Thỉnh đã đủ độ chín trong suy tư trải nghiệm về thế thái nhân tình. Thường càng nhiều tuổi, cái nhìn và cách ứng xử của người ta càng nhân hậu, vị tha hơn. Biết được những cái chưa biết của mình về đời, hiểu được những điều chưa hiểu của mình về người, do vậy những trang thơ của ông thường dồn nén chất nghĩ và sức nghĩ.
Bài thơ “Hỏi” với một khuôn khổ nhỏ nhắn, mở ra nhiều tầng bậc suy tưởng, thể hiện cốt cách tư duy đậm chất dân gian của Hữu Thỉnh. Xuyên suốt bài thơ là những câu hỏi. Toàn bài được xây dựng theo hình thức đối thoại. Người hỏi là chủ thể trữ tình, đối tượng hướng tới là thiên nhiên: “đất”, “nước”, “cỏ” (ba khổ đầu) hình thức ngôn ngữ là đối thoại, còn đối tượng hướng tới là con người (nửa còn lại), ngôn ngữ thơ là độc thoại. Tính trí tuệ của bài thơ nằm ngay trong kết cấu, vừa sâu vừa tinh, vừa khái quát vừa chi tiết về những tình cảm, suy ngẫm của tác giả. Tứ thơ tạo dựng từ sự liên tưởng, đối chiếu: liên tưởng từ các hiện tượng tự nhiên đến nhân sinh. Thiên nhiên được nội tâm hoá, nhìn qua lăng kính ưu tư nhân thế đầy thi vị:
Tôi hỏi đất: – Đất sống với đất như thế nào?
– Chúng tôi tôn cao nhau
Tôi hỏi nước: – Nước sống với nước như thế nào?
– Chúng tôi làm đầy nhau
Tôi hỏi cỏ: – Cỏ sống với cỏ như thế nào?
– Chúng tôi đan vào nhau
Làm nên những chân trời
Những câu thơ của Hữu Thỉnh mang ý – nghĩa – đi – tìm, tìm cách khám phá và cảm nhận ý nghĩa văn hóa ẩn dụ trong những hiện tượng tự nhiên. Ý nghĩa ấy được trình bày bằng lời hỏi của tác giả “Tôi hỏi…”. Điều nhà thơ muốn hỏi đất, hỏi nước, hỏi cỏ là những sự vật ấy sống với nhau như thế nào? Từng sự vật đưa ra câu trả lời trực tiếp, dưới hình thức vấn đáp (các dấu gạch ngang đầu dòng) mà không phải gián tiếp qua lời thuật lại của tác giả. Mỗi khổ thơ đều mang ý nghĩa sâu sắc, hình thức giản dị, nhiều sức gợi, Hình thức mỗi khổ thơ gồm hai câu đi kèm với nhau ấy có dáng dấp như những câu thành ngữ, tục ngữ của cha ông ta xưa, qua sự chiêm nghiệm đúc kết mà có được, khiến câu thơ mang tính chất dân gian nhuần nhị. Mặt khác, cấu trúc ngôn ngữ đối thoại tạo nên sự đa giọng điệu, sự đa thanh – làm nên tính hiện đại của bài thơ.
Từ cái nhìn hiện thực khách quan: tầng đất tôn nhau lên, nước làm đầy, cỏ đan vào nhau mở ra bát ngát chân trời, nhà thơ chuyển hoá thành cái nhìn nội tâm: hình ảnh bên ngoài ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa bên trong: từng sự vật đều có cách thức sống riêng làm ẩn dụ cho nhân thế, mỗi sự vật có tiếng nói riêng và mang ý nghĩa biểu tượng.
Tôi hỏi đất: – Đất sống với đất như thế nào?
– Chúng tôi tôn cao nhau
Đất muôn thủa vẫn là thứ gắn bó máu thịt và thiêng liêng với con người nhất. Hữu Thỉnh đã nhìn thấy đất trong mối quan hệ “sống cùng”, “sống với” để khám phá ra ý nghĩa nhân sinh: “tôn cao” là một triết lý sống. “Tôn cao” là nâng đỡ chứ không phải vùi dập, “tôn cao” là hướng mở không gian chứ không gói gọn không gian; “tôn cao” là vươn ra ánh sáng chứ không phủ mờ, che lấp; “tôn cao” là để vững chãi thêm trước điều kiện thử thách khắc nghiệt…
Bằng một lẽ tự nhiên, sau “đất”, Hữu Thỉnh chọn “nước” để hỏi:
Tôi hỏi nước: – Nước sống với nước như thế nào?
– Chúng tôi làm đầy nhau
Nước vốn mềm mại, uyển chuyển, nước biểu trưng cho “khả năng ứng biến: một nét đặc sắc của văn hoá Việt Nam. “Nước làm đầy nhau” – cũng là một sự nâng cao nhưng trước hết là bổ khuyết, “làm đầy” thực ra là an ủi, xoa dịu, khỏa lấp, làm mềm lại những tổn thất, tổn thương. Hữu Thỉnh đã nhìn thấy triết lý nhân sinh trong đất và nước. Rồi đến cỏ, trong cái bát ngát mênh mông của cỏ, nhà thơ hỏi:
Tôi hỏi cỏ:
– Cỏ sống với cỏ như thế nào?
– Chúng tôi đan vào nhau
Làm nên những chân trời
Câu trả lời của cỏ thể hiện một cách sống đầy bản lĩnh và tình cảm (“đan vào”). Khẳng định tương lai, khát vọng “ làm nên những chân trời”. Phải có cái gốc nhân tình vững chắc thì mới nhìn ra được sự vận động của thiên nhiên và thế thái nhân tình. Hữu Thỉnh đã cúi xuống để hỏi đất, lội ngược dòng tìm nguồn để hỏi nước, bước ra không gian rộng lớn để hỏi cỏ – “đã sống với nhau như thế nào?”. Câu trả lời của tự nhiên là một lối sống, một cách ứng xử văn hoá: “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào” (để ) “làm nên”. Các sự vật tương sinh để cùng tồn tại cùng “ làm nên” những điều tốt đẹp. Những câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu, những câu trả lời là kết quả của quá trình nội tâm hoá, qua chiêm nghiệm mà đúc kết được. Bài thơ không dừng lại ở tiếng âm trầm, hiền hậu, lắng sâu của đất, tiếng trong trẻo thanh cao của nước, tiếng xôn xao vui vui của cỏ…không dừng ở thanh âm và triết lý sống của thiên nhiên mà đi sâu “ hỏi” cách sống của con người:
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Nếu ba khổ đầu tâm trạng nhà thơ dừng lại ở thế cân bằng, cái nhìn hoà đồng, cảm thông cùng vạn vật giúp chủ thể có được cảm giác an nhiên tự tại thì ở đoạn thơ sau, mạch thơ trở nên khắc khoải, xoáy sâu vào tâm can con người. Đối tượng hướng đến đã thay đổi, từ thiên nhiên chuyển sang con người, cấu trúc khổ thơ cũng thay đổi, khổ này chỉ có câu hỏi nhưng không có câu trả lời. Lúc này,thiên nhiên trở thành tấm gương soi cho nhân tình, đúng hơn, là kinh nghiệm đối nhân xử thế. Học tập kinh nghiệm từ thiên nhiên là vốn văn hoá được truyền từ đời này sang đời khác, qua cả ý thức và vô thức của con người. Thiên nhiên đã “sống với nhau”, “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào”, “làm nên” nhau…Vậy còn con người thì sao?
Người sống với người như thế nào?
Trong bài thơ câu hỏi: “Người sống với người như thế nào?” được lặp đi lặp lại tới ba lần, lần nào cũng khắc khoải, đau đáu mà không có một câu trả lời. Cách kết thúc như vậy tạo ấn tượng mạnh cho người đọc. Tác giả đã gieo vào lòng người đọc câu hỏi suy ngẫm, đòi hỏi mỗi người cần tự nghiêm túc trả lời. Câu trả lời chính là “tôn cao nhau”, “làm đầy nhau”, “đan vào nhau”, nghĩa là phải sống đẹp và sống có ý nghĩa, hướng đến lẽ sống cao đẹp: mỗi chúng ta hãy học cách hi sinh và dâng hiến, sống với nhau bằng thái độ sẻ chia, cảm thông. Sức mạnh của cuộc sống đích thực chính là sự đoàn kết, gắn bó giữa người với người.
“Sống với” là sống với người và sống với mình, sống nghiệm sinh trong từng khoảnh khắc của riêng mình và sống tử tế với mọi người, chính là biết “tôn cao” những giá trị đích thực, “làm đầy” những mất mát tổn thương, khỏa lấp những khoảng cách, để làm nên ý nghĩa cho sự tồn tại của mỗi người. Không nên để những ảo tưởng che lấp đi cái chân thật sáng trong, nhất là không được quên những mảnh đời bất hạnh đang cần đến ở chúng ta một niềm an ủi. Và phải biết lắng nghe tiếng thì thầm của cây cỏ, tiếng trầm lắng của lòng người để sống tốt hơn, đẹp hơn. Bài thơ là nỗi niềm trăn trở, sự suy ngẫm của nhà thơ về thái độ sống của mỗi con người trong cuộc đời; đồng thời cũng là lời nhắc nhở mọi người tự nhận thức lại thái độ sống của mình và tự soi lại mình để có cách “sống với nhau” cho phù hợp, cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp.
Thơ Hữu Thỉnh, ở những bài hay như bài thơ Hỏi đã đạt đến tính hàm súc cổ điển, với lối hành văn trí tuệ và chất cảm xúc đằm thắm, nhuần nhị. Hồn cốt dân gian, nếp cảm, nếp nghĩ gắn bó với truyền thống ai đọc cũng thấy thân quen như tự những câu thơ đã nằm trong trí nhớ từ lâu.
ĐỀ 6. Phân tích bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân” của Thanh Thảo.
“Những giọt sương lặn vào lá cỏ
Qua nắng gắt, qua bão tố
Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh
Vẫn long lanh, bình thản trước vầng dương…”
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Không phải ngẫu nhiên mà Rasul Gamzatov đã từng tâm niệm rằng: “Thơ ca bắt nguồn từ những âm vang của tâm hồn”.Thật vậy, thi ca muôn đời là nơi bộc lộ những trăn trở, những nghĩ suy những thổn thức của trái tim người nghệ sĩ trước cuộc đời. Và bài thơ “Sự bùng nổ của mùa xuân” của Thanh Thảo cũng chính là những nỗi niềm chân thành của thi nhân. Đến với thế giới nghệ thuật của nhà thơ này, người đọc sẽ bắt gặp những xúc cảm mà nhà thơ Thanh Thảo đã giãi bày những suy ngẫm của mình về cái đẹp của cuộc đời trong bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân”.
Bài thơ “Sự bùng nổ của mùa xuân” là gửi gắm tâm tư của của nhà thơ thanh Thảo về cái đẹp trong cuộc đời. Có bao giờ bạn nghe được tiếng lá rơi rất khẽ, thấy được chồi non mới nhú? Bạn đã lắng nghe tiếng chim hót líu lo chào mừng ngày mới, tiếng rì rào bất tận trên những cánh đồng quê hay bạn đã chạm tay vào cánh hoa mềm mại của bó cúc trắng tinh? Đã bao giờ lắng mình để thấy được giọt sương long lanh đậu trên lá cỏ mỗi sớm mai!? Tất cả những điều đó là cái đẹp của cuộc sống đáng trân quý. Vậy nên, nhà thơ Thanh Thảo đã gợi mở cho ta nhiều suy ngẫm về con người, cuộc sống qua hình ảnh thiên nhiên thật đẹp:
“Những giọt sương lặn vào lá cỏ
Qua nắng gắt, qua bão tố
Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh
Vẫn long lanh, bình thản trước vầng dương…”
Con người khi sinh ra ai cũng mong có một cuộc sống hạnh phúc và thành công. Cuộc đời vốn dĩ không hề màu hồng, không bình yên và bằng phẳng. Nhưng vẫn luôn chứa đựng những điều kỳ diệu, những điều bất ngờ. Muốn biến cuộc sống của mình thành một bức tranh rực rỡ màu sắc thì con người ta phải biết biến những khó khăn thành động lực. Hai câu thơ đầu, hình ảnh thiên nhiên hiện lên thật đẹp. Hình ảnh giọt sương lặn vào lá cỏ chính là biểu tượng cho cái đẹp bình dị, khiêm nhường của đời sống quanh ta. Nó là những điều tưởng chừng như rất nhỏ bé nhưng lại vô cùng ý nghĩa. Giọt sương bé nhỏ, rất đỗi mỏng manh, khiêm nhường nhưng lại tiềm ẩn sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Nắng gắt, bão tố là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những khó khăn, thử thách của cuộc đời. Nhưng cái đẹp ấy phải trải qua “nắng gắt”, “bão tố”, trải qua khó khăn, thử thách của cuộc đời để rồi “Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh/Vẫn long lanh, bình thản trước vầng dương” nghĩa là vẻ đẹp của cuộc đời muôn đời vững bền, bất biến dẫu trải qua bao khắc nghiệt, bao thăng trầm.
Cuộc đời vốn dĩ không bằng phẳng mà luôn chứa đầy những khó khăn thử thách. Tác giả đã sử dụng rất thành công cấu trúc: Qua…vẫn…vẫn. Việc sử dụng cấu trúc điệp đã nhấn mạnh vẻ đẹp vững bền, bất biến của những giọt sương qua bao khắc nghiệt của tự nhiên, bao thăng trầm của đời sống.
Từ một hiện tượng trong thiên nhiên, Thanh Thảo gợi mở cho ta nhiều suy ngẫm về con người, cuộc sống. Đó là sức sống bền bỉ, mãnh liệt của thiên nhiên, và cũng chính là sức sống bền bỉ, mãnh liệt của con người trước sóng gió cuộc đời. Và đời sống vẫn luôn tiềm ẩn những vẻ đẹp kì diệu. Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ, lí thú, luôn ẩn chứa vẻ đẹp bình dị mà thanh cao.Thiên nhiên, con người vẫn luôn tiềm tàng sức sống bền bỉ, mãnh liệt trước sóng gió cuộc đời. Giữa vô vàn khó khăn, khốc liệt của hoàn cảnh, cái đẹp vẫn đơm hoa, sự sống vẫn nảy mầm. Giữa cuộc đời đầy chông gai, sóng gió, có những con người bình thường nhưng vẫn tiềm ẩn sức sống phi thường, đầy bản lĩnh, nghị lực. Có những sự vật bề ngoài tưởng chừng mong manh, những con người thoạt nhìn rất nhỏ bé, khiêm nhường (như giọt sương, lá cỏ) nhưng lại ẩn chứa một sức mạnh lớn lao, một vẻ đẹp kì diệu. Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ, luôn ẩn chứa vẻ đẹp bình dị mà thanh cao, những con người khiêm nhường mà vĩ đại. Tâm hồn con người, cái đẹp lên hương từ cuộc sống chính là hạt ngọc lung linh,trong ngần, ngời sáng biết bao thánh thiện mà mỗi một chúng ta cần biết nâng niu, trân trọng. Cuộc đời này vốn rất đẹp. Muốn nhận ra những vẻ đẹp kì diệu đó, điều cốt yếu nhất là chúng ta cần phải có tầm nhìn, biết cách nhìn nhận, khám phá, trân trọng cái đẹp của đời sống, con người.
Đặc sắc của bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân” của Thạch Thảo còn được thể hiện qua hình thức nghệ thuật. Ngôn ngữ bình dị, sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ, , hình ảnh thơ đẹp, mang tính biểu tượng, biện pháp điệp cấu trúc có tác dụng nhấn mạnh, khẳng định triết lí nhân sinh trong cuộc đời..
Nghệ thuật nói của tình cảm con người, là những rung động của trái tim nhà thơ trước cuộc đời. Nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng tuy hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này. Bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân” của Thạch Thảo là bài thơ mang những chiêm nghiệm, suy tư mà nhà thơ muốn giãi bày, gửi gắm tới bạn đọc, gửi gắm tình ý sâu xa về cái đẹp của cuộc đời.Tâm hồn người làm thơ đẹp lắm, mơ mộng lắm, nhưng bao giờ cũng phải cúi xuống cuộc đời theo nghĩa trần thế nhất để yêu thương. Nhà thơ phải trân quý cái nghiệp của mình để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đích thực, bằng cái tình, cái tâm nhiệt thành với từng sự sống, bằng cái tài, sự tâm huyết và cả những trăn trở nhiều lần để tìm được tiếng nói riêng, tiếng nói tri âm cùng bạn đọc. Đón nhận, đồng cảm, thấu hiểu những tâm tư tình cảm mà người nghệ sĩ gửi gắm trong tác phẩm là nhiệm vụ của bạn đọc. Bạn đọc nâng niu, trân quý những tình cảm cao đẹp mà nghệ sĩ gửi gắm chính là quá trình đồng sáng tạo, quá trình đi tìm “hồn đồng điệu” cùng người nghệ sĩ chân chính.
Thơ đong đầy xúc cảm và người đọc hãy đón nhận nó bằng tất cả trải nghiệm và suy ngẫm, hãy nghe, cảm nhận và đồng sáng tạo. Dùng cái tâm, cái tình để cảm xúc đánh thức. Cần tình để bao dung, cần tài để tình thăng hoa và nghệ thuật vượt ra ngoài quy luật băng hoại của thời gian.Nhà thơ Thanh Thảo đã gửi gắm nỗi lòng mình đến bạn đọc muôn đời về cái đẹp của cuộc sống. Từ bao đời nay cái đẹp vẫn luôn trường tồn, luôn được con người trân quý và ngợi ca trong dòng chảy thơ ca bởi “Thơ là con đường ngắn nhất đi từ trái tim đến trái tim”.
ĐỀ 7. Phân tích bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng ” của Nguyễn Thế Hoàng Linh?
Ông ra vườn nhặt nắng
Thơ thẩn suốt buổi chiều
Ông không còn trí nhớ
Ông chỉ còn tình yêu
Bé khẽ mang chiếc lá
Đặt vào vệt nắng vàng
Ông nhặt lên chiếc nắng
Quẫy nhẹ, mùa thu sang
Bài tham khảo
1.Mở bài
Trong bài thơ “Nghĩ lại về Pau-xtốp-xki” – nhà thơ Bằng Việt từng viết: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ. Như đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”. Có những tác phẩm ra đời để rồi lãng quên ngay sau đó, nhưng có những tác phẩm lại như những dòng sông đỏ nặng phù sa in dấu ấn chạm khắc trong tâm khảm. Những tác phẩm ấy đã trở thành “ những bài ca đi cùng năm tháng” và để lại trong tâm hồn bạn đọc những ấn tượng không bao giờ quên. Một trong số đó phải kể tới bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng ” của Nguyễn Thế Hoàng Linh. Bài thơ là tiếng lòng của đứa cháu nhỏ dành cho người ông đã già, không còn minh mẫn của mình.
- Thân bài
* Phân tích nội dung
Luận điểm 1. Bài thơ “Ra vườn nhặt nắng” của Nguyễn Thế Hoàng Linh là tiếng lòng của đứa cháu nhỏ dành cho người ông đã già, không còn minh mẫn của mình.
– Người ông chiều chiều tha thẩn đi dạo trong vườn trong ánh nắng cuối chiều của mùa thu, phải chăng khi con người ở vào cái tuổi “ xưa nay hiếm” thường hay lặng lẽ đón nhận tuổi già của mình cùng thiên nhiên?! Và nắng cuối chiều cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi của ông – cái tuổi không còn tinh anh nữa…
– Bằng cái nhìn trẻ thơ, trong veo, ăm ắp yêu thương của đứa cháu nhỏ, khổ thơ gợi hình ảnh người ông đã già thường góp nhặt niềm vui tuổi già vào mỗi buổi chiều nơi khu vườn nhỏ, hòa mình cùng thiên nhiên, cùng giọt nắng chiều nơi vườn nhà. Cuộc đời ông đã trải bao thăng trầm nhưng đến khi về già ông thanh thản, chẳng mấy bận tâm về chuyện đời, chuyện người. Tâm hồn ông giờ đây trong veo như giọt nắng thu nghiêng nghiêng mà ông gom lại cho tuổi già thêm niềm vui.
– Dù thời gian đã hằn in trên cuộc đời của ông, trí nhớ ông không còn minh mẫn nữa nhưng tình yêu thương trong ông không bao giờ vơi cạn, ông vẫn luôn dành cho con cháu tất cả yêu thương “Ông không còn trí nhớ/ Ông chỉ còn tình yêu ”: bao yêu thương đong đầy ông dành cả cho đứa cháu nhỏ bên ông.
– Khổ thơ gợi hình ảnh hai ông cháu một già một trẻ đang cùng cười vui, cùng nắm tay nhau đi dạo quanh khu vườn điều đó làm cho không gian thêm ấm áp, tình ông cháu thêm bền chặt.
– Với con mắt quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm đứa cháu nhỏ cảm nhận về không gian mùa thu đã chạm ngõ
Bé khẽ mang chiếc lá
…………………….
Quẫy nhẹ mùa thu sang
– Sắc vàng của lá hòa trong màu nắng tinh khôi làm nên vệt vàng lung linh, cả không gian như tràn ngập sắc vàng. Một chiếc lá vàng rụng xuống thật khẽ, thật nhẹ làm xao động không gian, xao động cả lòng trẻ thơ…
– Đứa cháu nhỏ như hiểu ý ông “ khẽ mang chiếc lá/ đặt vào vệt nắng vàng” để rồi “ Ông nhặt lên chiếc nắng”, cả hai ông cháu cùng đón nhận mùa thu sang. Thu sang thật êm dịu, không gian thu đang chuyển mình để rồi “ Quẫy nhẹ” – âm thanh mùa thu, tiếng thu đang cựa quậy, chuyển mình, bước chuyển mùa cũng thật khẽ khàng và dịu êm.
Bài thơ là giọt lòng của đứa cháu nhỏ dành cho người ông kính yêu của mình. Đó chính là giọt trong vắt của yêu thương. Chính phép màu của yêu thương đã thu niềm vui tuổi già của ông vào trong giọt nắng. Bởi yêu thương tạo ra mọi kì diệu cả trong cuộc đời và trong nghệ thuật. Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng” là sự cất tiếng của yêu thương để bồi đắp cái gốc yêu thương cho con người!
– Bài thơ lắng lại trong ta bao suy ngẫm: Biết trân trọng, kính yêu người thân trong gia đình, biết mở rộng tâm hồn để lắng nghe, cảm nhận những biến chuyển của thiên nhiên, đất trời. Phải có tâm hồn tinh tế, yêu thiên nhiên tạo vật tha thiết nhà thơ mới có thể cảm nhận bước đi của thời gian, không gian thu tinh tế và chính xác đến vậy.
* Phân tích nghệ thuật đặc sắc
Thơ ca bao giờ cũng phát khởi nơi tình cảm dạt dào của người nghệ sĩ và được thể hiện bằng ngôn từ chắt lọc, chau chuốt. Thơ là sự lên tiếng của trái tim, là rung động tâm hồn, là dòng cảm xúc chân thành, mãnh liệt từ đó nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình thông qua hệ thống ngôn từ giàu giá trị biểu cảm. Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng” của Nguyễn Thế Hoàng Linh là bài thơ thể hiện tiếng lòng đứa cháu nhỏ yêu kính người ông của mình và thể hiện qua những ngôn từ trong sáng, gần gũi, giản dị, trong sáng – đó là ngôn ngữ ấu nhi rất đặc trưng của đồng dao.Vì lẽ đó, người nghệ sĩ phải có trái tim nhạy cảm, tinh tế, lao động nghiêm túc, tâm huyết với ngòi bút thì mới tạo nên những tác phẩm có giá trị sống mãi với thời gian. Còn bạn đọc cũng luôn khao khát được đón nhận những vần thơ tác tuyệt, được đồng sáng tạo cùng nhà thơ để thấu hiểu hơn bản thân, con người và cuộc đời.
- Kết bài : Thơ ca là câu hát được vang lên và thăng hoa từ tận sâu nơi xúc cảm của người nghệ sĩ để rồi những tác phẩm được ra đời từ đó, thơ ca bắt rễ từ tiếng lòng của người cầm bút và được nhà thơ tinh chắt ngôn ngữ để dệt nên cây đàn muôn điệu làm say đắm lòng người. “Ra vườn nhặt nắng” là bài thơ đã bắt rễ từ giọt lòng của Nguyễn Thế Hoàng Linh dành cho người ông đã già của mình và kết tinh từ tài nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ thực sự đã “Bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”.
ĐỀ 8. Phân tích bài thơ “ Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh.
Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa quan họ
nở tím bên sông Thương
nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên
đám mây trên Việt Yên
rủ bóng về Bố Hạ
lúa cúi mình giấu quả
ruộng bờ con gió xanh
nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang
cho sắc mặt mùa màng
đất quê mình thịnh vượng
những gì ta gửi gắm
sắp vàng hoe bốn bên
hạt phù sa rất quen
sao mà như cổ tích
mấy cô coi máy nước
mắt dài như dao cau
ôi con sông màu nâu
ôi con sông màu biếc
dâng cho mùa sắp gặt
bồi cho mùa phôi phai
nắng thu đang trải đầy
đã trăng non múi bưởi
bên cầu con nghé đợi
cả chiều thu sang sông.
Bài tham khảo
Mùa thu luôn là đề tài, là cảm hứng quen thuộc lâu đời của thơ ca.Trong kho tàng văn học dân tộc ta đã từng biết đến một mùa thu trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến, thu ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư, dào dạt và đượm buồn trong thơ Xuân Diệu.Và thật bất ngờ khi ta gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, êm dịu, ngọt ngào trong “ Chiều sông Thương”…
Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong quân đội, ông viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn và về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng.Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm. Ông nổi tiếng với những bài thơ mang phong cách độc đáo, mới lạ. Viết về quê hương và tình yêu quê hương, bài thơ “Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh là một bài thơ xinh xắn, đáng yêu. Những câu thơ, lời thơ ngọt ngào ấy cứ rạo rực trong lòng, làm căng mở các giác quan và thấm ngọt vào hồn bạn đọc.
Chiều thu đẹp thơ mộng bên sông Thương, thuộc vùng Bố Hạ, Việt Yên là thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật, được miêu tả và cảm nhận. Người đi xa về thăm quê trìu mến, bâng khuâng dõi nhìn cảnh vật quê hương là tâm trạng nghệ thuật. Buổi chiều trong thơ, nhất là chiều thu thường man mác buồn, nhưng “Chiều sông Thương” lại nhiều thiết tha, bâng khuâng, rạo rực. Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì “dùng dằng”, níu giữ, vấn vương. Có lẽ vì cô gái Kinh Bắc xinh đẹp (hoa Quan họ) mà chàng trai thấy “nở tím” cả dòng sông quê nhà; đôi bàn chân cứ “dùng dằng” mãi:
“Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa Quan họ
Nở tím bên sông Thương”.
Thương quê mẹ, quê em “nước vẫn nước đôi dòng” biết bao lưu luyến gợi nhớ, gợi thương đã bao đời: “dòng trong dòng đục, em trông ngọn nào”… Chiều quê, một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp ló chân trời, rất thơ mộng hữu tình “Chiều uốn cong lưỡi hái”. Một câu thơ, một hình ảnh rất thơ, rất tài hoa. Cánh buồm, dòng sông, đám mây, đều được nhân hóa, mang tình người và hồn người, như đưa đón, như mừng vui gặp gỡ người đi xa trở về:
“Những gì sông muốn nói
Cánh buồm đang hát lên
Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ”.
Nhà thơ – đứa con đi xa trở về say sưa đứng ngắm nhìn cảnh vật, cánh đồng quê hương. Gió thu trở thành “con gió xanh”. Lúa uốn cong trĩu hạt, tưởng như đang “cúi mình giấu quả”. Một chữ “ngoan” tài tình gợi tả dòng nước “đỏ nặng phù sa” êm trôi trong lòng mương lòng máng:
“Nước màu đang chảy ngoan
Giữa lòng mương máng nổi”.
Cảnh vật đồng quê, từ đường nét đến sắc màu đều tiềm tàng một sức sống ấm no, chứa chan hi vọng. Là những nương “mạ đã thò lá mới – Trên lớp bùn sếnh sang”: Là những ruộng lúa “vàng hoe” trải dài, trải rộng ra bốn bên bốn phía chân trời mênh mông, bát ngát. Là dòng sông thơ ấu chở nặng phù sa, mang theo bao kỉ niệm, bao hoài niệm “Hạt phù sa rất quen – Sao mà như cổ tích”. Lần thứ hai, nhà thơ nói đến cô gái vùng Kinh Bắc, Quan họ duyên dáng, đa tình. Không phải là “Những nàng môi cắn chỉ quết trầu” Cũng không phải là “Những cô hàng xén răng đen – Cười như mùa thu tỏa nắng ” (“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm). Mà ở đây là những cô gái Quan họ xuất hiện trong dáng vẻ lao động “để thương, để nhớ, để sầu cho ai :
“Mấy cô coi máy nước
Mắt dài như dao cau”
Chàng trai về thăm quê xúc động, khẽ cất lên lời hát. Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn. Câu cảm thán song hành với những điệp từ điệp ngữ làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm. Bức tranh quê nhà với bao sắc màu đáng yêu:
“Ôi con sông màu nâu
Ôi con sông màu biếc
Dâng cho mùa sắp gặt
Bồi cho mùa phôi thai”
Tiếng thơ mang nặng ân tình đối với đất mẹ quê cha, đối với cái nôi mà “em ” đã sinh thành, là nơi anh đã lớn khôn. Biện pháp điệp ngữ “ôi con sông” “ cho” tạo sự ngân nga, thiết tha, bồi hồi, say đắm, cảm xúc dâng trào khiến lòng người xúc động khẽ cất lên lời hát ngợi ca, tự hào về một vùng quê màu mỡ. Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều tàn.
“Nắng thu đang trải đầy
Đã trăng non múi bưởi
Bên cầu con nghé đợi
Cả chiều thu sang sông”.
Dòng sông quê hương là mạch nguồn dẫn truyền sự sống, nơi tích tụ dưỡng chất, bồi đắp và dâng cho đời những mùa vàng bội thu, dâng cho đời nhựa sống làm nên sự phồn thịnh của quê hương. Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều buông. Vầng trăng non lấp ló như “múi bưởi”. Và con nghé đứng đợi mẹ bên cầu … hình ảnh nào cũng giàu sức gợi, dân dã, thân thuộc, yên bình khiến hồn người bâng khuâng, rạo rực, thiết tha một tình quê. Cảnh sắc quê hương thơ mộng, hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải, dào dạt trong hồn người.Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì “dùng dằng”, níu giữ, vấn vương. Con sông Thương trong ca dao tưởng như đã nhập lưu với “con sông màu nâu, con sông màu biếc” của Hữu Thỉnh. Cảnh sắc quê hương hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải, dạt dào như ru hồn ta vào ca dao, cổ tích.
Thể thơ 5 chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang, nhiều biện pháp tu từ độc đáo, hình ảnh thơ đẹp…Chất liệu văn hoá dân tộc dân gian ngàn năm đã thấm dưỡng linh hồn những câu thơ, chữ thơ, hơi thơ trong bài “ Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh khiến hồn người cũng đắm say, mơ mộng cùng cảnh vật nên thơ. Chất thơ, tình thơ là ở đấy…. cứ giăng mắc, vấn vương mãi hồn ta về một chiều thu nên thơ, hữu tình.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã bộc lộ nhiều cảm xúc sâu lắng về sông Thương và quê hương quan họ, tình yêu quê hương, yêu đất nước đã ngân nga, thấm chảy trong hồn nhà thơ để rồi cái mạch nguồn dạt dào ấy cứ thiết tha, lắng đọng ngân rung trong từng lời thơ, thơ thơ nhẹ nhàng êm ái trong trong khúc nhạc tâm hồn: “ Chiều sông Thương” – Một bài thơ xinh xắn, đáng yêu, đáng mến!