PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi
Mùa hè năm đó là mùa hè quê ngoại.
Cuối năm lớp chín, tôi học bù đầu, người xanh như tàu lá. Ngày nào mẹ tôi cũng mua bí đỏ về nấu canh cho tôi ăn. Mẹ bảo bí đỏ bổ óc, ăn vào học bài sẽ mau thuộc. Trước nay, tôi vốn thích món này. Bí đỏ nấu với đậu phộng thêm vài cọng rau om, ngon hết biết. Nhưng ngày nào cũng phải buộc ăn món đó, tôi đâm ngán. Hơn nữa, dù dạ dày tôi bấy giờ tuyền một màu đỏ, trí nhớ tôi vẫn chẳng khá lên chút nào. Tôi học trước quên sau, học sau quên trước. Vì vậy tôi phải học gấp đôi những đứa khác.
Tối, tôi thức khuya lơ khuya lắc. Sáng, tôi dậy từ lúc trời còn tờ mờ. Mắt tôi lúc nào cũng đỏ kè. Ba tôi bảo:
– Nhất định đầu thằng Chương bị hở một chỗ nào đó. Chữ nghĩa đổ vô bao nhiêu rớt ra bấy nhiêu. Thế nào sang năm cũng phải hàn lại.
Mẹ tôi khác ba tôi. Mẹ không phải là đàn ông. Mẹ không nỡ bông phèng trước thân hình còm nhom của tôi. Mẹ xích lại gần tôi, đưa tay nắn nắn khớp xương đang lồi ra trên vai tôi, bùi ngùi nói:
– Mày học hành cách sao mà càng ngày mày càng giống con mắm vậy Chương ơi !
Giọng mẹ tôi như một lời than. Tôi mỉm cười trấn an mẹ:
– Mẹ đừng lo! Qua kỳ thi này, con lại mập lên cho mẹ coi!
Không hiểu mẹ có tin lời tôi không mà tôi thấy mắt mẹ rưng rưng. Thấy mẹ buồn, tôi cũng buồn lây. Nhưng tôi chẳng biết cách nào an ủi mẹ. Tôi đành phải nín thở nuốt trọn một tô canh bí đỏ cho mẹ vui lòng.
Dù sao, công của tôi không phải là công cốc. Những ngày thức khuya dậy sớm đã không phản bội lại tôi. Kỳ thi cuối năm, tôi xếp hạng khá cao.
Ba tôi hào hứng thông báo:
– Sang năm ba sẽ mua cho con một chiếc xe đạp.
Mẹ tôi chẳng hứa hẹn gì. Mẹ chỉ “thưởng” tôi một cái cốc trên trán:
– Cha mày! Từ nay lo mà ăn ngủ cho lại sức nghe chưa!
Ba tôi vui. Mẹ tôi vui. Nhưng tôi mới là người vui nhất. Tôi đàng hoàng chia tay với những tô canh bí đỏ mà không sợ mẹ tôi thở dài. Dù sao thì cũng cảm ơn mày, cơn ác mộng của tao, nhưng bây giờ xin tạm biệt nhé! Tôi cúi đầu nói thầm với trái bí cuối cùng đang nằm lăn lóc trong góc bếp trước khi vung tay cốc cho nó một phát.
(Trích Hạ đỏ, Nguyễn Nhật Ánh, Nxb Trẻ, 2019)
Câu 1. Đoạn trích trên được kể theo ngôi thứ mấy? Ai là người kể chuyện?
Câu 2. Theo văn bản, vì sao nhân vật “tôi” phải học gấp đôi những đứa khác?
Câu 3. Trong đoạn văn sau câu nào là câu rút gọn? Việc sử dụng câu rút gọn trong đoạn văn đó có tác dụng gì?
“Nhất định đầu thằng Chương bị hở một chỗ nào đó. Chữ nghĩa đổ vô bao nhiêu rớt ra bấy nhiêu. Thế nào sang năm cũng phải hàn lại”.
Câu 4. Chi tiết “Thấy mẹ buồn, tôi cũng buồn lây. Nhưng tôi chẳng biết cách nào an ủi mẹ. Tôi đành phải nín thở nuốt trọn một tô canh bí đỏ cho mẹ vui lòng” cho thấy tình cảm gì của nhân vật “tôi” đối với người mẹ của mình?
Câu 5. Qua văn bản trên, em rút ra được những thông điệp gì?
PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung đoạn trích phần đọc – hiểu, viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận của em về nhân vật “tôi”.
Câu 2. (4,0 điểm)
Trong thời đại công nghệ 4.0, sự giao lưu, hội nhập giữa các nền văn hóa càng trở nên phổ biến. Một bộ phận giới trẻ chưa chú ý tới việc giữ gìn và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Hãy viết bài văn nghị luận khoảng 600 chữ trình bày suy nghĩ của em để giải quyết vấn đề trên.
——-Hết——
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần | Câu | Nội dung | Điểm | |
I. ĐỌC HIỂU | 1 | – Ngôi kể thứ nhất
– Người kể: tôi (nhân vật Chương) |
0,25
0,25 |
|
2 | – Việc nhân vật tôi phải học học gấp đôi những đứa khác vì: “Tôi học trước quên sau, học sau quên trước” | 0,5 | ||
3 | – Câu rút gọn: Thế nào sang năm cũng phải hàn lại.
– Tác dụng: Làm cho câu ngắn gọn, thông tin dược nhanh, tránh lặp lại những từ ngữ đã lặp lại ở những câu trước. |
0,5
0,5
|
||
4 | * HS có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, dưới đây là 1 số gợi ý:
Chi tiết “Thấy mẹ buồn, tôi cũng buồn lây. Nhưng tôi chẳng biết cách nào an ủi mẹ. Tôi đành phải nín thở nuốt trọn một tô canh bí đỏ cho mẹ vui lòng” cho thấy tình cảm của nhân vật tôi đối với người mẹ của mình: + Sự yêu thương và quan tâm: Dù không biết cách nào để an ủi mẹ, nhân vật “tôi” vẫn cố gắng làm điều gì đó để mẹ vui lòng. Hành động nín thở nuốt trọn tô canh bí đỏ dù có thể không thích món ăn này cho thấy “tôi” rất yêu thương và quan tâm đến mẹ, luôn sẵn sàng làm bất cứ điều gì để mẹ được vui vẻ. + Lòng hiếu thảo: Nhân vật “tôi” muốn mẹ vui lòng và sẵn sàng làm những việc dù nhỏ bé nhưng có ý nghĩa để làm mẹ hạnh phúc. Điều này cho thấy lòng hiếu thảo của “tôi” đối với mẹ, luôn muốn đáp lại sự chăm sóc và tình yêu thương của mẹ bằng những hành động thiết thực. |
0,5
0,5 |
||
5 | Những thông điệp rút ra từ văn bản:
+ Dù có gặp khó khăn, sự kiên trì và nỗ lực sẽ giúp bạn vượt qua và đạt được thành quả xứng đáng. + Tình cảm gia đình là điểm tựa, là động lực tinh thần mạnh mẽ để mỗi người vượt qua những thử thách, chông gai trên đường đời. + Con cái phải biết yêu thương, quan tâm, biết ơn và hiếu thảo với cha mẹ. |
0,5
0,25
0,25 |
||
II. PHẦN VIẾT |
1 |
1.1.Yêu cầu chung:
Đảm bảo thể thức đoạn văn; hướng về chủ đề, suy nghĩ mới mẻ, diễn đạt trôi chảy bằng ngôn ngữ của mình, giàu chất văn chương, đảm bảo tính liên kết, không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp. |
||
1.2. Yêu cầu cụ thể:
Đảm bảo thể thức đoạn văn. Học sinh trình bày đoạn văn hoàn chỉnh, có câu chủ đề, có các câu phát triển chủ đề. |
0,25 | |||
Xác định đúng vấn đề: Tâm trạng của nhân vật “tôi”” | 0,25 | |||
* Mở đoạn:
– Trong truyện ngắn “Hạ đỏ” của Nguyễn Nhật Ánh và đặc biệt là đoạn trích “Mùa năm đó ở quê ngoại….”, tác giả đã thể hiện thành công tâm trạng của nhân vật “tôi”. Trong bức tranh mùa hè ấy, tôi là một nhân vật có nhiều áp lực và lo lắng nhưng luôn kiên trì và nỗ lực. * Thân đoạn: – Chương là một cậu bé chịu nhiều áp lực vào mùa thi + Mặc dù mùa hè thường là thời gian của niềm vui và tự do, nhưng đối với tôi, nó biến thành một thử thách không nhỏ. Tôi cảm thấy căng thẳng và mệt mỏi khi phải học bù để đuổi kịp chương trình “tôi phải học gấp đôi những đứa khác.”, “Tối, tôi thức khuya lơ khuya lắc. Sáng, tôi dậy từ lúc trời còn tờ mờ. Mắt tôi lúc nào cũng đỏ kè” + Món canh bí đỏ, dù từng là một món ngon yêu thích, bây giờ lại trở thành nỗi ám ảnh “ngày nào cũng phải buộc ăn món đó, tôi đâm ngán”. Mỗi ngày, tôi phải chịu sức ép từ gia đình, đặc biệt là ba. Ba tôi bảo “Nhất định đầu thằng Chương bị hở một chỗ nào đó. Chữ nghĩa đổ vô bao nhiêu rớt ra bấy nhiêu”, nhưng mẹ lại là người hiểu và an ủi tôi “lại gần tôi, đưa tay nắn nắn khớp xương đang lồi ra trên vai tôi”. Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy phải cố gắng hơn để không làm mẹ buồn “Tôi đành phải nín thở nuốt trọn một tô canh bí đỏ cho mẹ vui lòng.” – Nhưng “tôi” là cậu học trò luôn bền bỉ, cố gắng và kiên trì trong học tập. Sau những nỗ lực không ngừng, tôi đã vượt qua kỳ thi và nhận được sự tự hào và ủng hộ từ gia đình bởi “Kỳ thi cuối năm, tôi xếp hạng khá cao.”. – Cảm giác hạnh phúc và thoải mái khi được giải thoát khỏi áp lực và nỗi lo âu của ngày trước là điều không thể diễn tả “Ba tôi vui. Mẹ tôi vui. Nhưng tôi mới là người vui nhất”. – Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật Chương được khắc hoạ thông qua việc miêu tả ngoại hình, hành động và tính cách… * Kết đoạn: – Khẳng định lại vấn đề – Liên hệ bản thân. |
1,0 |
|||
Sáng tạo:
Cách diễn đạt độc đáo, hấp dẫn. |
0,25 | |||
Chính tả, ngữ pháp:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, đặt câu. |
0,25 | |||
2 |
2.1. Yêu cầu chung
Viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của em về vấn đề cần giải quyết: Trong thời đại công nghệ 4.0, sự giao lưu, hội nhập giữa các nền văn hóa càng trở nên phổ biến. Một bộ phận giới trẻ chưa chú ý tới việc giữ gìn và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc |
|||
2.2. Yêu cầu cụ thể
a. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn nghị luận: Trình bày đầy đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Đảm bảo sự liên kết câu, liên kết đoạn. |
0,25 | |||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Trong thời đại công nghệ 4.0, một bộ phận giới trẻ chưa chú ý tới việc giữ gìn và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. | 0,25 | |||
Bài làm cần đảm bảo các nội dung cơ bản sau:
– Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu – Có thể triển khai theo hướng: 1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận, sự cần thiết của vấn đề cần bàn luận. 2. Thân bài: a. Giải thích vấn đề nghị luận – Văn hóa truyền thống là những giá trị tinh thần được hình thành từ lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là những phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, lối sống, cách ứng xử… của ông cha ta từ ngàn xưa. Những giá trị văn hóa đó đã tạo nên bản sắc riêng của mỗi dân tộc giúp chúng ta phân biệt được với các dân tộc khác trên thế giới. b. Phân tích vấn đề * Thực trạng + Trong thời đại 4.0 toàn cầu hóa, văn hóa truyền thống đang phải đối mặt với nguy cơ mai một và biến dạng. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang bị lãng quên, thay vào đó là sự du nhập của văn hóa ngoại lai. Một số phong tục tập quán tốt đẹp đang dần biến mất, các lễ hội truyền thống bị thương mại hóa, ngôn ngữ bị pha tạp…đặc biệt là ở các trung tâm đô thị. + Một số bạn trẻ lãng quên những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, chạy theo những thứ phù phiếm, xa hoa hay những danh lợi vật chất, sa đà vào mạng xã hội…. * Nguyên nhân – Thực trạng trên xuất phát từ sự tác động của quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa, sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng xã hội, sự thiếu quan tâm, hiểu biết của một bộ phận giới trẻ về văn hóa truyền thống, sự buông lỏng quản lý của một số cơ quan chức năng…. * Hậu quả – Nếu không có biện pháp bảo vệ kịp thời, văn hóa truyền thống sẽ dần mai một, làm mất đi bản sắc dân tộc, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước. Giới trẻ sẽ đánh mất cội nguồn, thiếu đi những giá trị tinh thần để làm chỗ dựa trong cuộc sống… Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp, triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách để làm rõ vấn đề nghị luận, bảo đảm hợp lí, thuyết phục, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. * Ý kiến trái chiều và phản bác – Ý kiến trái chiều: Một số người cho rằng giữ gìn truyền thống văn hóa có từ xa xưa là lỗi thời, không phù hợp với xã hội hiện đại. – Phản bác: Giữ gìn truyền thống không có nghĩa là chống lại hiện đại có thể bổ trợ cho nhau, tạo nên sức mạnh mới. Bằng chứng: Nhiều di sản văn hóa được số hóa như tranh Đông Hồ và múa rối nước, được quảng bá rộng rãi trên toàn cầu. * Đề xuất giải pháp khả thi và có tính thuyết phục: – Giáo dục: + Đưa văn hóa dân gian vào chương trình học và tổ chức các buổi ngoại khóa minh chứng “ngày hội văn hóa dân gian” tại các trường học thu hút đông đảo học sinh tham gia. + Tích cực tìm hiểu, học hỏi và trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống thông qua việc đọc sách, tham gia các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống, tìm hiểu về lịch sử, phong tục tập quán của dân tộc. – Ứng dụng công nghệ: số hóa các di sản văn hóa và quảng bá trên các mạng xã hội. Minh chứng: Nhiều video về văn hóa Việt Nam được đăng tải trên TikTok, Youtube thu hút nhiều triệu lượt xem… – Khuyến khích sáng tạo: Tích hợp truyền thống và hiện đại để tạo ra các sản phẩm văn hóa phù hợp với giới trẻ. Nhà nước: Ban hành chính sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. · Liên hệ bản thân: ….. Học sinh có thể đề xuất một hoặc nhiều giải pháp, trình bày theo nhiều hướng, bảo đảm hợp lí, thuyết phục, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. 3. Kết bài: Khẳng định lại quan điểm cá nhân đã trình bày và rút ra bài học cho bản thân. |
0,5
0.25
0,5
0,25
0,25
0,25
0,5 0,25
0,5 |
|||
d. Sáng tạo
Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (viết câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong bài văn nghị luận một cách khéo léo, phù hợp). |
0,25 |