PHẦN ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Khi chúng ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, cả thế giới xung quanh chỉ còn là những cái bóng… Và khi chúng ta cảm thấy cô đơn, chúng ta muốn tìm lấy một ai đó để bấu víu, thì chỉ chạm vào những chiếc bóng mà thôi.
Nhưng nếu mỗi ngày, chúng ta chịu quan tâm và lắng nghe, thì chúng ta sẽ nhìn thấy được câu chuyện đời của mỗi người, ít nhất là những người thân thiết quanh ta, ta sẽ nhận ra mỗi người đều có một thân phận, những nỗi đau, những thất bại và sai lầm, những ước mộng không thành… Nhờ đó, những người quanh ta trở nên có thực, là những con người hiện hữu chứ không chỉ là những cái bóng. Và ta sẽ thấy mình không hề đơn độc trên thế giới này. Cũng như sự yêu thương là có thật.
Khi mà nỗi cô đơn luôn rình rập chúng ta mỗi ngày, thì biết đâu trong một khoảnh khắc đầy may rủi của định mệnh, cái cảm giác không đơn độc ấy lại có thể cứu lấy cả một đời người!
(Phạm Lữ Ân, Nếu biết trăm năm là hữu hạn…, NXB Hội nhà văn, 2016)
Câu 1 (1,0 điểm). Xác định thể loại và phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2 (1,0 điểm). Hai câu “Nhờ đó, những người quanh ta trở nên có thực, là những con người hiện hữu chứ không chỉ là những cái bóng. Và ta sẽ thấy mình không hề đơn độc trên thế giới này” được liên kết với nhau bằng phép liên kết nào? Nêu tác dụng của phép liên kết đó.
Câu 3 (1,0 điểm). Theo tác giả, vì sao “khi chúng ta cảm thấy cô đơn, chúng ta muốn tìm một ai đó để bấu víu, thì chỉ chạm vào những chiếc bóng mà thôi”?
Câu 4 (1,0 điểm). Xét về cấu tạo, câu văn sau thuộc kiểu câu nào? Nêu dấu hiệu nhận biết kiểu câu đó?
“Khi chúng ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, cả thế giới xung quanh chỉ còn là những cái bóng”.
Câu 5 (1,0 điểm). Nội dung chính của đoạn trích trên là gì?
Câu 6 (1,0 điểm). Em có đồng tình với quan điểm: “Khi mà nỗi cô đơn luôn rình rập chúng ta mỗi ngày, thì biết đâu trong một khoảnh khắc đầy may rủi của định mệnh, cái cảm giác không đơn độc ấy lại có thể cứu lấy cả một đời người” ? Vì sao?
PHẦN VIẾT (4.0 điểm)
Câu 7 (4,0 điểm). Viết bài văn nghị luận phân tích nội dung chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của truyện ngắn sau:
BÀI HỌC TUỔI THƠ
(Nguyễn Quang Sáng)
Thằng con tôi 11 tuổi, học lớp sáu. Qua mùa thi chuyển cấp, nhân một buổi chiều cho con đi chơi mát, nó kể… Đang hỏi nó về chuyện thi cử, nó chợt hỏi lại tôi:
– Ba! Có bao giờ thấy có một bài luận văn nào điểm không không ba? Con số không cô cho bự bằng quả trứng gà. Không phải cho bên lề, mà một vòng tròn giữa trang giấy. Thiệt đó ba. Chuyện ngay trong lớp của con, chứ không phải con nghe kể đâu.
Tôi chưa kịp hỏi, nó tiếp:
– Còn thua ba nữa đó, ba. Ít nhứt ba cũng được nửa điểm. Còn thằng bạn của con, con số không bự như quả trứng.
Thằng con tôi ngửa mặt cười, có lẽ nó thấy thú vị vì thời học trò của ba nó ít nhứt cũng hơn được một đứa.
[…] Khi con tôi đọc bài văn đó, con tôi hỏi:
– Sao bây giờ ba là nhà văn? Và bạn bè cũng hỏi như vậy. Tôi cũng đã tự lý giải về mình, và lời giải cũng đã in vào sách rồi, xin không nhắc lại.
Tôi hỏi con tôi:
– Luận văn cô cho khó lắm hay sao mà bạn con bị không điểm.
– Luận văn cô cho “Trò hãy tả buổi làm việc ban đêm của bố”.
– Con được mấy điểm?
– Con được sáu điểm.
– Con tả ba như thế nào?
– Thì ba làm việc làm sao thì con tả vậy.
– Mấy đứa khác, bạn của con?
Thằng con tôi như chợt nhớ, nó liến thoắng:
– A! Có một thằng ba nó không hề làm việc ban đêm mà nó cũng được sáu điểm đó ba.
[…]
– Còn thằng bạn bị không điểm, nó tả như thế nào?
– Nó không tả không viết gì hết, nó nộp giấy trắng cho cô.
– Sao vậy?
Hôm trả lại bài cho lớp, cô gọi nó lên, cô giận lắm, ba. Cô hét: “Sao trò không làm bài”. Nó cúi đầu làm thinh. Cô lại hét to hơn: “Hả?”. Nó cũng làm thinh. Tụi con ngồi dưới, đứa nào cũng run.
[…] Nó cứ làm thinh. Tức quá, cô mới quất cây thước xuống bàn cái chát: “Sao trò không làm bài?” Tới lúc đó nó mới nói: “Thưa cô, con không có ba”. Nghe nó nói, hai con mắt của cô con mở tròn như hai cái tô. Cô đứng sững như trời trồng vậy ba!
Tôi bỗng nhập vai là cô giáo. Tôi thấy mình ngã qụy xuống trước đứa học trò không có ba.
Sau đó cô và cả lớp mới được biết, em mồ côi cha khi vừa mới lọt lòng mẹ. Ba em hy sinh trên chiến trường biên giới. Từ ấy, má em ở vậy, tần tảo nuôi con…
Có người hỏi em: “Sao mày không tả ba của đứa khác”. Em không đáp, cúi đầu, hai giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má.
Chuyện của đứa học trò bị bài văn không điểm đã để lại trong tôi một nỗi đau. Em bị không điểm, nhưng với tôi, người viết văn là một bài học, bài học trung thực. Sáng tạo không đồng nghĩa với bịa đặt.
Giữa những dòng chữ bịa đặt và trang giấy trắng, tôi xin để trang giấy trắng trung thực trên bàn viết.
Mùa thu, 1990
(In trong Tuyển tập truyện ngắn đặc sắc, NXB Văn hoá – văn nghệ Thành phố HCM)
* Chú thích
Tác giả:
– Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
– Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957; Ủy viên Ban Chấp hành Hội khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký Hội khóa 4.
– Ông mất tại nhà riêng ở Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 17 giờ ngày 13 tháng 2 năm 2014.
*. Sự nghiệp văn học
– Những năm chống Mĩ, Nguyễn Quang Sáng trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
– Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
Truyện ngắn. “Bài học tuổi thơ”, viết năm 1990, kể câu chuyện của một bài tập làm văn với đề bài là “Trò hãy tả buổi làm việc ban đêm của bố”.
HƯỚNG DẪN CHẤM
ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Câu | Nội dung | Điểm |
1 | Thể loại: văn bản nghị luận
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận. |
0,5
0,5 |
2 |
– Phép liên kết: Phép nối – “và”.
– Tác dụng: + Tạo sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn, làm cho chúng trở thành một chỉnh thể thống nhất, mạch lạc. + Làm nổi bật chủ đề hai câu văn: Ta không hề đơn độc, vì xung quanh ta có những con người thực để quan tâm, yêu thương lẫn nhau. |
0,5
0,25
0,25
|
3 | Theo tác giả, “khi chúng ta cảm thấy cô đơn, chúng ta muốn tìm một ai đó để bấu víu, thì chỉ chạm vào những chiếc bóng mà thôi” vì “khi chúng ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, cả thế giới xung quanh chỉ còn là những cái bóng”. | 1,0 |
4 | – Xét về cấu tạo, câu trên là câu đơn.
– Vì câu có một cụm chủ – vị: Chủ ngữ: Cả thế giới xung quanh; vị ngữ: chỉ còn là những cái bóng. |
0,5
0,5 |
5 | Nội dung chính của đoạn trích: Nói về thái độ, cách ứng xử giữa con người với nhau trong cuộc sống. | 1,0 |
6 | – HS có thể trả lời đồng tình hoặc không đồng tình, hoặc vừa đồng tình vừa không đồng tình.
– Lí giải phù hợp. Gợi ý: Có đồng tình, vì: + Chúng ta cảm thấy mình được yêu thương, mình có sự gắn kết với thế giới này. + Khi chia sẻ, mình có thể cảm nhận được cuộc sống có những người khó khăn và vất vả hơn mình nhiều, mình có thể vẫn là một con người rất may mắn. Mình cần cố gắng và nỗ lực cho cuộc sống nhiều hơn nữa… |
0,25
0,75
|
II.VIẾT(4,0 điểm)
Câu | Nội dung | Điểm |
7
|
*Yêu cầu chung
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Nội dung chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của truyện Bài học tuổi thơ. c. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau: – Hs có trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau: |
0,25
0,25
1,0
0,5
|
* Yêu cầu cụ thể
– Giới thiệu tác phẩm văn học, khái quát về chủ đề và đặc sắc nghệ thuật. Luận điểm 1: Phân tích nội dung chủ đề của truyện: – Chủ đề của truyện là bài học về sự trung thực và sự trân trọng với những người lính đã hi sinh vì Tổ quốc. Chủ đề đó thể hiện qua một cuộc trò chuyện giữa cố nhà văn và đứa con trai 11 tuổi, học lớp 6, viết vào mùa thu năm 1990. Câu chuyện được kể lại một cách chân thực, đầy suy ngẫm về một cậu học trò bị điểm 0 khi bỏ giấy trắng trong bài tập làm luận văn với lý do vì em học sinh đó không có ba và ba em đã hy sinh trên chiến trường biên giới: – Phân tích nội dung chủ đề: + Truyện kể về một bài văn bị điểm 0 của cậu học trò lớp 6. Đề văn là “Tả ba em làm việc vào ban đêm” nhưng cậu bé lại nộp giấy trắng cho cô giáo, chỉ tới khi cô giáo hỏi cậu rằng vì sao cậu không làm bài thì mọi người mới lặng người đi khi biết rằng cha của cậu đã hi sinh khi đang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó không chỉ là một bài văn bị điểm 0, đó còn là bài học về sự trung thực, dũng cảm đối mặt với sự thật cho dù biết rằng kết quả có thể xấu tới thế nào đi chăng nữa. + Cậu bé trong câu truyện đã chấp nhận rằng mình có thể sẽ bị mắng, bị trách tội cũng như bị điểm kém vì đã không hoàn thành bài tập được cô giáo giao. Thế nhưng, cậu đã dũng cảm thừa nhận những điều ấy vì cậu không muốn sống là một người giả dối. Khi có người bạn hỏi rằng “Vì sao mày không tả bố đứa khác”, cậu chỉ im lặng mà không trả lời. Có lẽ, cậu chưa từng được nhìn thấy bố, chưa được biết hình ảnh của bố mình trông sẽ ra sao khi làm việc buổi đêm, nhưng cậu tự hào vì bố mình, cậu tự hào khi bố mình đã không tiếc hi sinh mạng sống, hạnh phúc của bản thân để giành lại hạnh phúc cho những gia đình khác. Cậu im lặng khi được hỏi cũng như đã trả lời rằng bố của mình chỉ duy nhất có một người, sẽ không có bất cứ ai có thể thay thế được vị trí của bố trong lòng cậu cả. => Tác giả không chỉ đề cao sự trung thực của cậu bé, mà qua đó ông còn dành sự kính trọng cho những người lính đã đánh đổi xương máu của mình để giành lại độc lập, tự do hôm nay cho đất nước. Luận điểm 2: Phân tích những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của truyện: + Cốt truyện đơn giản, dễ hiểu. + Câu chuyện được kể bằng ngôi thứ nhất, qua góc nhìn của một người cha, người đã trải qua những kỷ niệm đau buồn trong quá khứ và hiểu rõ giá trị của sự trung thực. + Ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, nhưng vẫn đầy tình cảm để tạo nên sức hút cho câu chuyện… Đánh giá chung: – Với câu chuyện kể tự nhiên, hấp dẫn, tác phẩm đã truyền tải thông điệp sâu sắc và ấn tượng đến người đọc: Chúng ta hãy biết trân trọng những người lính – những người đã hi sinh xương máu vì độc lập, tự do của Tổ quốc; hãy biết rèn luyện tính trung thực, đặc biệt trong môn văn, sáng tạo không đồng nghĩa với bịa đặt, và việc truyền đạt giá trị văn học cần phải được thực hiện một cách trung thực và chân thành. – Khẳng định lại ý kiến về nội dung chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật, nêu cảm nghĩ hoặc tác động của tác phẩm với bản thân. |
||
d. Sáng tạo: có quan điểm riêng, suy nghĩ phù hợp, có so sánh mở rộng với bài thơ có cùng chủ đề, đề tài
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt. |
0,5 |