Phần I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Câu 1: Đọc đoạn trích sau và thực hiện theo yêu cầu bên dưới:
(1) Xã hội hiện đại thường có xu hướng đánh giá sự thành công của con người qua hình thức vật chất bên ngoài: chức vụ của họ, số tiền họ kiếm được, chiếc xe họ đi, quần áo họ công mặc. Nhiều người quên rằng, tiền bạc chỉ là một thước đo chứ không phải là tất cả để đánh giá sự thành công về mặt sự nghiệp của một con người. Còn rất nhiều thước đo phi vật chất. Công việc có phù hợp với người đó không, có đem lại cho họ sự thỏa mãn sâu sắc không, môi trường làm việc có thích hợp không, họ có lợi ích tinh thần nào khác trong công việc không, công việc có giúp ích trong việc hoàn thành những mục tiêu dài hạn của người đó, nó có giúp họ nhận thấy được ý nghĩa của việc họ làm hay đem lại lợi ích cho nhiều người khác không?
(2) Tương tự như vậy, cuộc sống con người là tập hợp nhiều vai trò trong xã hội mà công việc chỉ là một trong số những vai trò đó (…). Có người thành công trong vai trò này của cuộc đời nhưng lại thất bại trong vai trò khác. Benjamin Franklin, một trong những vị cha đẻ của nền độc lập Hoa Kì, vừa là nhà ngoại giao, nhà vật lí, nhà hải dương học, nhà phát minh, nhà khoa học, người chơi cờ, nhạc sĩ, có nhiều đóng góp cho ngành in ấn, bưu điện và sự phát triển của nước Mĩ. Đối với nhiều người, ông là mẫu hình lí tưởng của sự xuất chúng và thành công. Nhưng Benjamin Franklin không có mặt bên vợ mình trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời bà, bà mất đi khi ông đang công du tại châu Âu. Ông có mối quan hệ cực kì căng thẳng với người con trai duy nhất của mình và đứa con trai đã rời bỏ ông đi định cư ở một nơi khác vì mâu thuẫn về quan điểm chính trị. Có lẽ không ít người chẳng dám đánh đổi những thứ như thế để đạt được thành công rực rỡ như Franklin.
(3) Định nghĩa thành công cũng khác nhau ở mỗi người. Tôi còn nhớ sự chia sẻ của Jessica Lu, chuyên gia tư vấn nhân sự của Tập đoàn Toweratson, người đã nghỉ hưu ở tuổi 40 vì đã đạt được những mục tiêu về tài chính: “Tôi tự thấy mình là người thành công, vì hiện giờ tôi đã trở thành chính xác con người mà tôi từng mong ước”. Thành công tức là trở thành người mình từng mong muốn trở thành, một định nghĩa thú vị. Quả thật, điều thử thách nhất và mãn nguyện nhất trong cuộc sống, không phải là trở thành người thành công trong mắt người khác, hay trong cái nhìn của xã hội, mà là vượt lên bản thân, đạt được những mục tiêu của mình, và trở thành người mà mình từng mong ước. Còn đối với tôi, thành công chính là sống trọn vẹn với tất cả tiềm năng của mình…
(Trích Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu? – Rossie Nguyễn, NXB Hội nhà văn, 2018)
Câu 1. Trong văn bản tác giả chỉ ra xã hội hiện đại thường đánh giá sự thành công qua tiêu chí nào? (1 điểm)
Câu 2. Chỉ ra lời dẫn trực tiếp có trong văn bản. (1 điểm)
Câu 3: Xác định luận đề của văn bản. (1 điểm)
Câu 4: Chỉ ra tác dụng của việc sử dụng câu ghép sau trong đoạn trích trên: (1 điểm)
“ Công việc có phù hợp với người đó không, có đem lại cho họ sự thỏa mãn sâu sắc không, môi trường làm việc có thích hợp không, họ có lợi ích tinh thần nào khác trong công việc không, công việc có giúp ích trong việc hoàn thành những mục tiêu dài hạn của người đó, nó có giúp họ nhận thấy được ý nghĩa của việc họ làm hay đem lại lợi ích cho nhiều người khác không?”
Câu 5: Qua văn bản, tác giả thể hiện những tình cảm, cảm xúc gì? (1 điểm)
Câu 6. Em có đồng ý với quan điểm “Thành công tức là trở thành người mình từng mong muốn trở thành” không? Tại sao? (1.điểm)
PHẦN II. VIẾT (4,0 điểm)
Viết một bài văn phân tích truyện ngắn sau:
XIN ĐỪNG LÀM MẸ KHÓC
Người mẹ cất tiếng hỏi trong nỗi mừng vui sau một cuộc vượt cạn mệt nhọc: “Con tôi đâu”. Với khuôn mặt rạng ngời, chị đón lấy đứa bé từ tay bác sĩ. Và nụ cười bỗng tắt lịm khi chị nhìn thấy cấu tạo tai ngoài của đứa bé không như những đứa trẻ khác.
Thế nhưng đứa trẻ vẫn có thể nghe hiểu được bình thường, điều này có nghĩa cấu tạo tai trong vẫn phát triển tốt. Dù vậy, người mẹ vẫn cảm thấy xót xa và có lỗi với đứa con. Ngược lại, theo thời gian, đứa trẻ vẫn sống vô tư, không hay biết gì về dị tật của mình.
Cho đến một ngày, cậu bé đi học về, chạy đến ôm chầm lấy mẹ rồi òa khóc: “Mẹ ơi! Các bạn trêu chọc con là đứa trẻ bị “cụt” tai”. Những lời nói của con như vết dao cứa vào trái tim người mẹ. Ôm chặt con vào lòng, người mẹ như ôm cả nỗi đau đớn của mình. Rồi cậu bé bỗng ngừng khóc, quay qua nhìn mẹ, cậu bé rắn rỏi nói: “Con sẽ chứng minh rằng con tuy khuyết tật về thân thể, nhưng con không khuyết tật về tâm hồn. Mẹ đừng khóc nữa, mẹ nhé!”.
Ngày tháng trôi qua, cậu bé lớn lên với khuyết tật của cơ thể. Như để minh chứng cho lời hứa năm nào, cậu bé luôn chuyên tâm học tập, không ngừng nỗ lực tìm tòi, học hỏi. Cậu còn có năng khiếu vượt trội về bộ môn ngữ văn và thanh nhạc. Thành tích học tập của cậu bé xuất sắc đến nỗi giáo viên luôn khẳng định với cha mẹ cậu bé rằng, nếu tiếp tục trau dồi, bé sẽ là một nhân tài của đất nước. Giờ đây, người mẹ bắt đầu an lòng hơn về khiếm khuyết của con, tuy rằng từ sâu thẳm trái tim, người mẹ vẫn ước con mình được lành lặn về thân thể.
Một ngày kia, cuộc đời cậu bé dường như mở ra với một tia hy vọng mới. Các bác sĩ khẳng định cậu có thể được ghép tai, chỉ cần có người đồng ý hiến tai cho cậu. Thế là cha mẹ cậu lao vào cuộc tìm kiếm người có thể hiến tai cho con mình. Một ngày nọ, người cha trở về nhà với gương mặt phấn khởi và thông báo rằng: “Cha đã tìm được người tự nguyện hiến tai cho con”.
Cuộc phẫu thuật thành công, cậu bé được ghép một đôi tai lành lặn, hoàn hảo. Thế nhưng, cậu bé không tìm được ra người đã tặng tai cho mình. Người ta bảo rằng người đó muốn hy sinh thầm lặng và quyết không tiết lộ danh tính.
Thế rồi cậu bé lớn lên và trở thành một nhạc sĩ vô cùng nổi tiếng ở cả những nước lân cận. Thế nhưng, cậu vẫn luôn trăn trở về việc chưa thể đền đáp người đã hiến tặng đôi tai cho mình. Thi thoảng, trong những lần hiếm hoi về thăm cha mẹ, chàng trai lại hỏi về thông tin của vị ân nhân, nhưng cha cậu chỉ lắc đầu tuyệt vọng. Còn người mẹ chỉ lặng lẽ xõa tóc ngồi lặng im trong một góc phòng ấm áp nhìn cậu.
Kể từ ngày con trai được ghép tai và bắt đầu cuộc sống tự lập, người mẹ trở nên xa cách dần. Bà không còn hàn huyên trò chuyện cùng cậu, thậm chí đôi lúc chàng trai cảm giác như người mẹ đang cố lẩn tránh mình. Thế nhưng, cuốn theo vòng xoáy của công việc, anh lại tiếp tục xa gia đình với những chuyến lưu diễn dài ngày.
Một ngày nọ, chàng trai được tin mẹ mình ốm nặng. Đáp chuyến bay sớm nhất về nhà, anh lao đến bệnh viện tìm mẹ. Nhìn mẹ thoi thóp những hơi thở cuối cùng trên giường bệnh, cậu cúi xuống ôm mẹ khóc nức nở. Chàng trai hôn lên đôi tay gầy guộc bao năm tảo tần nuôi anh khôn lớn, hôn lên vầng trán hằn những nếp nhăn thời gian, rồi run run, anh vuốt nhẹ mái tóc bạc trắng của mẹ. Bỗng anh bàng hoàng nhận ra: mẹ đã không còn đôi tai nữa. Giờ thì anh đã hiểu vì sao bao năm nay, mẹ luôn tìm cách trốn tránh mình. Anh cũng nhận ra sự thật là đã nhiều năm rồi, mẹ không cắt tóc, rất ít khi ra khỏi nhà và không giao tiếp với những người xung quanh.
Rưng rưng khóc, chàng trai quỳ xuống, ôm lấy cơ thể nhỏ bé của bà. Anh hôn lên má, lên trán những cái hôn đầy yêu thương và thầm thì: “Mẹ ơi! Mẹ đã cho con sự sống và ban tặng cả cuộc đời của mẹ cho con!”.
(Hạ Duy, Xin đừng làm mẹ khóc, trích Quà tặng cuộc sống)
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần I | Yêu cầu | Điểm |
1 |
Xã hội hiện đại thường có xu hướng đánh giá sự thành công của con người qua hình thức vật chất bên ngoài: chức vụ của họ, số tiền họ kiếm được, chiếc xe họ đi, quần áo họ công mặc | 1.0
|
2 | – Phần trích dẫn có trong đoạn trích là : “Tôi tự thấy mình là người thành công, vì hiện giờ tôi đã trở thành chính xác con người mà tôi từng mong ước” | 1.0
|
3 | Luận đề của văn bản: cách đánh giá về sự thành công của con người | 1.0 |
4 | Tác dụng của việc sử dụng câu ghép “ Công việc có phù hợp với người đó không, có đem lại cho họ sự thỏa mãn sâu sắc không, môi trường làm việc có thích hợp không, họ có lợi ích tinh thần nào khác trong công việc không, công việc có giúp ích trong việc hoàn thành những mục tiêu dài hạn của người đó, nó có giúp họ nhận thấy được ý nghĩa của việc họ làm hay đem lại lợi ích cho nhiều người khác không?”
– Khẳng định có rất nhiều yếu tố phi vật chất là thước đo về sự đánh giá sự thành công của mỗi người chứ không chỉ một tiêu chí vật chất bề ngoài. ( 1 điểm) |
1.0
|
5 | Qua văn bản, tác giả thể hiện những tình cảm, cảm xúc:
– Sự trăn trở trước thực trạng xã hội đánh giá thành công một cách phiến diện. – Sự đồng cảm, thấu hiểu với những người chọn con đường riêng. -> Dù bàn về một vấn đề có nhiều mặt trái của xã hội, nhưng tác giả không bi quan mà luôn hướng tới góc nhìn tích cực, mang tính gợi mở |
1.0 |
6 | Thí sinh thể hiện quan điểm và cách lí giải hợp lí. Có thể theo hướng sau:
– HS đưa ra ý kiến của bản thân: có thể đồng tình hoặc không đồng tình hoặc đồng tình một phần. – Nếu đồng tình, lí giải theo hướng: + Mỗi người có khát vọng, ước mơ và tiềm năng riêng + Tránh được áp lực từ định kiến xã hội về thành công + Tạo động lực để phát triển bản thân toàn diện + Thước đo thành công đến từ sự thỏa mãn về tinh thần, không phụ thuộc đánh giá bên ngoài – Nếu không đồng tình, lí giải theo hướng: + Định nghĩa còn mang tính chủ quan, cảm tính + Con người thường thay đổi ước mơ, mong muốn theo thời gian + Cần có thước đo khách quan hơn để đánh giá thành công + Không phải ai cũng hiểu rõ bản thân và điều mình thực sự muốn – Nếu đồng tình một phần, kết hợp hai hướng trên. |
1.0
|
Phần II
|
Đề: Viết bài văn nghị luận phân tích truyện ngắn Xin đừng làm mẹ khóc | |
a) Đảm bảo cấu trúc bài văn phân tích tác phẩm truyện | 0,25 | |
b) Xác định đúng yêu cầu của đề: Viết bài văn phân tích truyện ngắn | 0,25 | |
c) Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:
1. Nội dung và chủ đề: * Chủ đề chính của truyện “Xin đừng làm mẹ khóc” của Hạ Duy xoay quanh tình mẫu tử. * Hiện thực cuộc sống được phản ánh: – Nỗi đau của người mẹ khi sinh con khuyết tật – Sự trưởng thành và nỗ lực vượt khó của đứa con – Tình yêu thương và sự hy sinh cao cả của người mẹ a. Luận điểm 1: Tình yêu thương vô điều kiện và sự hy sinh thầm lặng của người mẹ. + Ngay từ giây phút đứa trẻ ra đời, khi nhận ra con trai bị khuyết tật bẩm sinh, người mẹ không cảm thấy xấu hổ mà chỉ thấy đau xót, lo lắng. + Trước ánh mắt ngây thơ của con trai, mẹ vẫn luôn tỏ ra mạnh mẽ để con không cảm thấy tự ti hay bất mãn với cuộc sống. + Người mẹ ước mơ cho con một cuộc sống đủ đầy, lành lặn và cố gắng làm mọi điều để con không cảm thấy thiệt thòi. + Sự hy sinh của người mẹ trở nên rõ ràng hơn khi bà quyết định cho đi đôi tai của mình – phần thân thể mà bà giữ kín, không bao giờ hé lộ cho con, và chỉ biết thầm lặng dõi theo hạnh phúc của con b. Luận điểm 2: Sự hối hận và lòng biết ơn của người con. + Người con lớn lên với khiếm khuyết về cơ thể, nhưng từ nhỏ đã nuôi trong lòng ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sống xứng đáng với kỳ vọng của mẹ. + Cậu bé hiểu được nỗi buồn trong đôi mắt mẹ. Cậu đã học tập chăm chỉ, đạt thành tích xuất sắc, để mẹ có thể yên lòng. Đây là biểu hiện ban đầu của lòng biết ơn trong người con. + Tuy nhiên, dù nỗ lực nhiều đến đâu, người con vẫn vô tình không nhận ra sự hy sinh thầm lặng mà mẹ dành cho mình. + Mãi đến cuối truyện, khi nhận ra đôi tai của mẹ đã mất, người con mới thật sự hiểu được sự hy sinh thầm lặng, trọn vẹn của mẹ: Mẹ đã hy sinh đôi tai cho con. + Giờ đây, nhận ra điều ấy quá muộn màng, người con mới thật sự thấy thấm thía lòng biết ơn và trách nhiệm đối với mẹ. 2. Nghệ thuật: a) Cốt truyện: – Kết cấu chặt chẽ, logic – Tình huống bất ngờ, cảm động (phát hiện người hiến tai chính là mẹ) b) Nghệ thuật kể chuyện: – Ngôi kể thứ ba khách quan – Miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế – Ngôn ngữ giàu cảm xúc – Chi tiết đặc sắc: Chi tiết người mẹ phát hiện dị tật của con khi vừa sinh. Chi tiết người mẹ hiến đôi tai của mình cho con. Đây là chi tiết quan trọng nhất của truyện và cũng là chi tiết gây xúc động mạnh mẽ nhất. c) Không gian và thời gian: – Thời gian trải dài từ khi nhân vật chính sinh ra đến khi trưởng thành – Không gian chuyển đổi linh hoạt III. Kết bài: Khẳng định giá trị về nội dung chủ đề, hình thức nghệ thuật của tác phẩm Suy nghĩ, bài học/thông điệp sau khi đọc tác phẩm |
2,5
|
|
d) Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản. | 0,5 | |
e) Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, sáng tạo. | 0,5 |