Chủ đề: Sáng tạo trong văn học nghệ thuật: Không giới hạn nhưng luôn hướng đến Chân – Thiện – Mỹ
Tham khảo bài viết
Thuở xưa, trong những trang thơ La Tinh đã từng khẳng định: “Sáng tạo là cội nguồn của nghệ thuật, là vầng thái dương vĩnh cửu và là chúa trời của nó”, ấy có lẽ đã trở thành quy luật tất yếu của các loại hình nghệ thuật. Và không nằm ngoài quy luật đó, văn học cũng vậy, nó luôn là lãnh địa của sự sáng tạo, của những “chất riêng”, những “dấu triện riêng” không trùng lặp. Phải chăng vì thế, anh – một người nghệ sĩ khi đã chọn dấn thân vào nghiệp văn chân chính là đã sẵn sàng để đi trên con đường kiến tạo những điều lạ, tư duy những lẽ mới không ngừng nghỉ. Trong một lần được trò chuyện với nhà văn Chu Lai, ông cho rằng: ‘Sáng tạo là cái nghề khổ hơn tất cả mọi nghề. Cái nghề tự “ăn óc” của mình.” Có lẽ điều khiến nhà văn phải trăn trở, băn khoăn chính là bản chất của nghệ thuật đòi hỏi sự tìm kiếm không ngừng giữa cái thực và cái hư, giữa đời sống và sáng tạo, giữa bình thường và phi thường. Như Tề Bạch Thạch từng nhận định: “Nghệ thuật vừa giống vừa không giống với cuộc đời. Nếu hoàn toàn giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật mị đời.” Chính sự giằng co này khiến nghệ sĩ không chỉ phản ánh mà còn phải biến hóa, sáng tạo nên những điều mới mẻ, vượt xa thực tại.
Mỗi tác phẩm văn học, mỗi nhân vật, mỗi câu chữ trong tác phẩm phải tạo được sự bất ngờ, lý thú đối với người đọc. Vì vậy cái đau đáu, đau đời là rất quan trọng vì nó là sự trải nghiệm cho cảm hứng sáng tạo. Cười hơn hớn, viên mãn là thất bại, vô cảm với cảnh đời trái ngang đang từng ngày diễn ra xung quanh là tự sát. Phản ánh hiện thực, mô phỏng cuộc sống, văn học yêu cầu nhà văn phải khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra những gì chưa có. Mỗi nhà văn khác nhau sẽ có những cái mới khác nhau, họ sẽ sáng tạo, biến hóa một đề tài chung thành của riêng mình nhờ một ý nghĩ, tâm tư đột phá nào đó. Cùng một đề tài nhưng dưới con mắt nghệ thuật khác nhau sẽ cho ra những góc nhìn chẳng giống nhau, đó là những góc nhìn đầy mới mẻ, độc đáo. Thậm chí đôi khi nhà văn cần bước ra khỏi giới hạn, khám phá vùng hiện thực mới, dám nói về những điều mà người khác không dám viết về để mở rộng biên độ cuộc sống trong văn học. Thạch Lam trong văn học hiện thực phê phán đã khai thác những số phận nhỏ bé tưởng chừng như bị xã hội vùi dập. Trong “Hai đứa trẻ,” ông không chỉ miêu tả đoàn tàu như một biểu tượng cho ước mơ, niềm hy vọng về một tương lai sáng sủa hơn của những con người phố huyện mà còn thể hiện sự đối lập cay đắng giữa niềm hy vọng mỏng manh ấy với thực tại ảm đạm. Đoàn tàu băng qua nhanh chóng, để lại bóng tối im lìm và cuộc sống nghèo nàn nơi gánh phở của bác Siêu, hàng nước của chị Tí hay sập hát của bác xẩm. Những mảnh đời nhỏ bé ấy, tưởng chừng vô danh, lại chính là chiều sâu của thời đại, làm đầy bức tranh hiện thực xã hội. Ở ngoài đời thực, họ là những số phận bên lề, nhưng ở văn chương, họ là nhân vật chính. Có thể nói chính những con người nhỏ bé ấy lại là chiều sâu của thời đại, là mảnh ghép hoàn tất bức tranh hiện thực, là chất dinh dưỡng thực thụ nuôi cây đời mãi mãi xanh tươi. Sáng tạo nghệ thuật chính“là sự ngạc nhiên” – ngạc nhiên vì khám phá ra những điều quen thuộc trong đời sống hàng ngày, nhận ra những điều sâu xa trong những điều giản dị.
Khi A.Einstein nói: “Thế giới như tôi thấy”; khi P.Picasso bày tỏ “tôi vẽ cái mà tôi thấy, không vẽ cái mà người khác thấy”; khi F.Kafka viết về một thế giới phi lý, giăng đầy các biểu tượng, các lớp nghĩa chồng lấn, văn chương nghệ thuật đã cất tiếng một cách mạnh mẽ về việc nó không chép lại, mô phỏng hiện thực một cách máy móc. Hay ở Việt Nam, Hàn Mặc Tử đã từng kêu lên, chiêm bao là hiện thực, bạn có thấy hai dòng nước mắt của tôi hay không. Đó là những giọt nước mắt chảy từ chiêm bao – vậy sao lại bảo chiêm bao không thực. Những giấc mơ, những vùng tối siêu hình, những chân trời lạ lẫm, ấy là hiện thực mà nghệ sĩ đã du hành, mang về dâng tặng loài người… Văn chương không phải máy ảnh, văn chương làm được nhiều hơn thế.Văn chương chính là sự sáng tạo và tưởng tượng không giới hạn: Văn học mở ra những thế giới tưởng tượng, nơi mà các quy luật vật lý và hiện thực có thể bị thách thức hoặc đảo lộn. Điều này không chỉ kích thích trí tưởng tượng của người đọc mà còn khuyến khích họ suy nghĩ vượt ra ngoài những giới hạn hiện có. Quả vậy, sự sáng tạo trong thế giới văn chương là không có biên giới, người nghệ sĩ có thể sáng tạo dựa trên những gì đã có nhưng ở một góc độ khác hoặc cũng có thể sáng tạo ra một điều hoàn toàn mới chưa từng xuất hiện, chỉ cần anh sáng tạo, đột phá tư duy không ngừng nghỉ anh mới thực sự là một nghệ sĩ ngôn từ chân chính.
Bản chất của nghệ thuật là sự sáng tạo không ngừng. Nghệ thuật, ở một góc độ nào đó, là tinh hoa văn hóa và văn minh của nhân loại, mang tính tiêu biểu và đại diện cho từng thời đại. Vì vậy, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, nghệ thuật cũng liên tục đổi mới, thậm chí xuất hiện những hình thức hoàn toàn mới. Tuy nhiên, gần đây, rất nhiều tác phẩm văn học Việt Nam đã sử dụng ngôn ngữ “đường phố hóa”, “bình dân hóa”, và cho đó là ‘sáng tạo” để xâm nhập, gần gũi hơn với đại đa số độc giả… Liệu đó có phải là sáng tạo, hay là “dung tục hóa” ngôn ngữ văn chương? Và liệu những tác phẩm đó có mang lại cái đẹp của nghệ thuật ngôn ngữ? Trên lý thuyết, sự sáng tạo trong nghệ thuật là vô hạn, không có ranh giới hay điểm dừng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là sự sáng tạo có thể vượt qua giới hạn của thẩm mỹ hay xa rời chân – thiện – mỹ, đích đến cuối cùng của nghệ thuật. Cái đẹp trong nghệ thuật không chỉ để chiêm ngưỡng, mà còn để thử thách và thăng hoa. Chỉ khi một tác phẩm đạt đến chuẩn mực thẩm mỹ, được thử thách qua thời gian, được công nhận và “sống” cùng công chúng.
Xóm Trọ Văn Chương – Kể chuyện tứ phương!