DÀN Ý CHUNG DẠNG BÀI PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CHỦ ĐỀ VÀ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT CỦA VĂN BẢN TRUYỆN
- MỞ BÀI:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Giới thiệu VĐNL: Chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của văn bản
Mẫu 1: Nhà phê bình văn học người Nga Bêlinxki khẳng định: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Vậy nên, mỗi nhà văn buộc phải là “nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê-khốp). Và nhà văn A với tình yêu thương con người vô bờ bến, cũng đã để cuộc đời “phả gió” vào trái tim mình, thôi thúc ông đi tìm kiếm những hạt bụi vàng lấp lánh trên cuộc đời, đúc thành những bông hoa hồng vàng sáng chói mang tên “B”. Đặc biệt, ấn tượng nhất với người đọc nhất có lẽ là đoạn văn “…”. Đoạn trích đã để lại trong lòng chúng ta những nét đặc sắc về chủ đề và hình thức nghệ thuật độc đáo.
Mẫu 2: Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn A đã để tiếng lòng của mình cất lên qua tác phẩm B. Đến với tác phẩm B, người đọc chắc hẳn vô cùng ấn tượng với đoạn trích… Qua đó ta thấy được những nét đặc sắc về chủ đề và hình thức nghệ thuật của văn bản. Mẫu 3: “Văn chương xưa nay được ví như bình rượu quý của thế gian. Và mỗi nhà văn được ví như là những nghệ nhân tinh chế hũ rượu văn chương ấy, bằng những tinh hoa của nghệ thuật và tình cảm mãnh liệt của mình dành cho đời, cho người. Tác phẩm đã quyến rũ lòng người bằng cách đó”. Truyện ngắn “…” của “…” thực sự là một “bình rượu tâm hồn” quý giá , và là nơi gửi gắm biết bao cái tâm, cái tài độc đáo để làm nên một tác phẩm bất hủ trong nền văn học Việt Nam. Chính vì vậy, đọc đoạn trích “…”, ta nhận ra vẻ đẹp độc đáo của chủ đề và đặc sắc nghệ thuật. Mẫu 4: Ai đó đã từng nói: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ. Như đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”. Có những tác phẩm ra đời để rồi lãng quên ngay sau đó, nhưng có những tác phẩm lại như những dòng sông đỏ nặng phù sa, in dấu ấn chạm khắc trong tâm hồn mỗi chúng ta. Những tác phẩm ấy đã trở thành “những bài ca không quên”, “bài ca lửa cháy”. Một trong số đó phải kể tới “ ……..” của …….. Đặc biệt, với trích đoạn “…”, ta càng trân trọng vẻ đẹp độc đáo của chủ đề và các đặc sắc nghệ thuật. Mẫu 5: “Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi / Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang” (Chế Lan Viên). Văn học nghệ thuật nói chung phải “bắt rễ từ cuộc đời” để rồi “nở hoa nơi từ ngữ”. Mỗi tác phẩm văn chương được ví như tấm gương phản chiếu thời đại. Trong nền văn học Việt Nam, có những tác phẩm văn học ra đời giữa những thăng trầm của vận nước để rồi trở thành “những bài ca không quên”. Trong số đó phải kể tới “…” của… Trích đoạn “…” đã để lại trong mỗi chúng ta vẻ đẹp độc đáo của chủ đề và các đặc sắc nghệ thuật. |
- THÂN BÀI:
- Đoạn văn khái quát chung: (1 đoạn văn)
– Giới thiệu ngắn gọn vài nét về tác giả (Dựa vào phần chú thích trong đề thi, chỉ ra thông tin về vị trí và phong cách).
– Giới thiệu vài nét về tác phẩm (Dựa vào phần chú thích trong đề thi, chỉ ra thông tin về hoàn cảnh ra đời).
– Tóm tắt ngắn gọn văn bản: (chỉ 3-4 dòng). Mẫu câu: Sử dụng ngôi thứ…, điểm nhìn của…, câu chuyện kể về A – một người…
- Phân tích chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của văn bản
- Chỉ ra và phân tích chủ đề của văn bản: (1 đoạn văn)
Lời dẫn: Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải thực sự là “tiếng sáo thổi lòng thời đại, thành giao liên dẫn dắt đưa đường”. Dường như ý thức rõ về điều này, nhà văn A đã viết nên “B” là “tiếng sáo”, là “giao liên” dẫn ta tới ý nghĩa nhân văn của [nêu chủ đề].
Hoặc: (1) “Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt / Một giọt mật thành đòi vạn chuyến ong bay” (Chế Lan Viên). Với ý thức sáng tạo không ngơi nghỉ, nhà văn A đã dẫn dắt người đọc trên những chuyến ong bay đến với chủ đề… (2) “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc đời viết ra” (Andersen). Bởi thế, đến với trích đoạn [tên tác phẩm], [tên tác giả] đã dẫn dắt ta khám phá chủ đề… |
– Nêu chủ đề: Câu chuyện ngắn đã đề cập đến chủ đề…
– Đánh giá: Đây là một chủ đề quen thuộc/ mới lạ trong văn học Việt Nam từ cổ chí kim. Có thể kể đến…
– Chứng minh chủ đề: Chủ đề câu chuyện đã được thể hiện một cách rõ ràng trong tác phẩm. Đầu tiên, nhan đề tác phẩm đề cập tới… Đặc biệt, chủ đề được làm rõ qua hình tượng nhân vật… Hành động, lựa chọn, cảm xúc của nhân vật đem đến bài học, thông điệp về…
- Chỉ ra và phân tích các đặc sắc nghệ thuật của văn bản:
Lời dẫn: Leonit Leonop cho rằng: “Mỗi tác phẩm là một khám phá về nội dung và một phát minh về hình thức”. Thật vậy, bên cạnh một nội dung sâu sắc, hình thức nghệ thuật là một yếu tố quan trọng không thể thiếu làm nên giá trị tác phẩm. [Trích đoạn B] của nhà văn A là một tác phẩm văn học trọn vẹn không chỉ bởi chủ đề … sâu sắc mà còn bởi hình thức nghệ thuật độc đáo.
Hoặc: (1) Có ai đó đã từng nói: “Hình thức là chiếc bình chứa đựng nội dung”. Một nội dung tuyệt đẹp phải trau chuốt bởi một hình thức tương xứng. Vì vậy, bên cạnh việc phát hiện thấy vẻ đẹp của chủ đề, ta còn nhận ra sự độc đáo trong hình thức nghệ thuật của trích đoạn. (2) Nguyễn Tuân từng nói: “Mỗi nhà văn là một phu chữ”. Còn Xuân Diệu lại cho rằng: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác”. Có lẽ vì vậy mà văn chương không chỉ đề cao chủ đề mà còn khám phá những nét đặc sắc của nghệ thuật. Thật vậy, [Trích đoạn B] của nhà văn A là một tác phẩm văn học trọn vẹn không chỉ bởi chủ đề … sâu sắc mà còn bởi hình thức nghệ thuật độc đáo. |
– Đầu tiên, tác giả xây dựng một cốt truyện đơn giản: Nhân vật của truyện chỉ có… người:… Câu chuyện xoay quanh một vài sự kiện chính:…
– Toàn bộ thời gian của câu chuyện được gói gọn trong…
– Không gian hầu như là… – một không gian…
– Lời trần thuật và lời thoại của câu chuyện đi theo hướng trần thuật đơn giản, ngắn gọn
– Bên cạnh đó, điểm đặc biệt ở đây là tình huống truyện độc đáo, bất ngờ:
+ Chỉ ra tình huống
+ Đó là một tình huống độc đáo, thú vị
+ Tình huống đã khắc họa… của nhân vật.
+ Đồng thời, tình huống cũng tạo tiền đề làm nổi bật chủ đề… và thúc đẩy tình tiết truyện phát triển.
– Hơn hết, truyện còn đặc sắc với nghệ thuật xây dựng nhân vật ấn tượng: nhân vật hiện lên với lời nói, hành động, suy nghĩ, cảm xúc, nội tâm…
– Người kể chuyện: ngôi thứ… -> tạo cảm giác khách quan, không phiến diện từ đánh giá, nhận xét của một ai đó / cảm giác chân thực, sinh động như một thước phim, tăng độ tin cậy cho câu chuyện.
– Truyện kết thúc… với dư âm về [chủ đề] vẫn còn đọng lại mãi.
III. Đánh giá:
Lời dẫn: Nếu như “tương lai của một nhà văn được đánh giá qua văn học anh ta để lại” như lời của Albert Camus thì tôi nghĩ A có thể tự hào về những gì mà ông/bà đã để lại cho đời. Trang viết của A đã làm đúng công việc của một kẻ sĩ “nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ”, làm đúng công việc của một kẻ sĩ luôn “quan hoài thường trực cho số phận con người”. Bằng cách …[đánh giá nghệ thuật], A đã xây dựng ấn tượng hình tượng nhân vật…, qua đó thể hiện…, đồng thời gửi gắm… (đánh giá nội dung). |
- Đánh giá nghệ thuật: Tác giả đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, cốt truyện hấp dẫn người đọc; cách kể chuyện sinh động, lôi cuốn; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của con người; nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế…
- Đánh giá nội dung:
– Xây dựng hình tượng…
– Bộc lộ tư tưởng về…
– Thể hiện thái độ… (trân trọng, ngợi ca / châm biếm, đả kích / phê phán, tố cáo / đồng cảm, thương xót)
– Gửi gắm bài học, thông điệp về…
- KẾT BÀI
Mẫu 1: Bêlinxki quan niệm: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Mỗi tác phẩm như một nấc thang nâng đỡ bước chân người đọc đi đến phần người, đi đến những giá trị chân – thiện – mĩ của cuộc sống. Tác phẩm B nói chung và đoạn văn/ đoạn thơ trên nói riêng của tác giả A như một làn gió mang tới cho tâm hồn con người thứ mát lành của triết lí sống đáng quý. Gấp lại trang sách mà ngọn gió ấy vẫn không ngừng thổi muôn đời.
Mẫu 2: Với những giá trị về chủ đề và đặc sắc nghệ thuật ở trên, đoạn trích xứng đáng trở thành tường thành cho tài năng và phong cách nghệ thuật của tác giả A . “Thời gian hủy hoại các lâu đài nhưng làm giàu những vần thơ” (Jorge Luis Borges). Một khoảnh khắc, ta bất chợt nhận ra, rằng thời gian vô tình nhất cũng trở nên dịu dàng khi đứng trước những vần thơ, câu viết. Năm tháng chảy trôi không khiến “B” rơi vào quên lãng, mà rơi vào khoảng trống trong trái tim và khối óc của con người, để người ta mãi nhớ, mãi trân trọng một tác phẩm để đời như thế.
Mẫu 3: Đoạn trích B khép lại, nhưng dư âm của nó vẫn còn mãi. Câu nói của Đặng Tiến: “Nghệ thuật tạo vẻ đẹp cho dòng nước mắt và biến nỗi thống khổ của nhân loại thành tiếng hát vô biên” như tìm thấy minh chứng rõ nét trong đoạn trích. Qua ngòi bút tài hoa của nhà văn A, những nỗi đau, những khát vọng của con người được nâng lên tầm cao của nghệ thuật, trở thành nguồn cảm hứng bất tận. “B” không chỉ là một câu chuyện, mà còn là một thông điệp sâu sắc về cuộc đời, về con người.
Mẫu 4: Đoạn trích … đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn mãi trong lòng người đọc. Những trang sách ấy như một bản tình ca, ngân vang những cung bậc cảm xúc đa dạng, từ niềm vui, nỗi buồn, đến sự trân trọng. Qua đoạn trích, (tên tác giả) đã gửi gắm đến chúng ta thông điệp về tình yêu thương, sự hy sinh cao cả. Đó không chỉ là tình yêu giữa con người với con người mà còn là tình yêu đối với cuộc sống. (Tên tác phẩm) là một món quà tinh thần ý nghĩa, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về giá trị của cuộc sống và trân trọng những người xung quanh.
Mẫu 5: Như vậy, truyện ngắn “…” của “…” thực sự là một “bình rượu tâm hồn” quý giá, đã khơi gợi trong lòng người đọc biết bao cảm xúc. Tác phẩm không chỉ đơn thuần là một câu chuyện, mà còn là một hành trình khám phá tâm hồn, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống và con người.
VÍ DỤ MINH HỌA:
“Văn chương xưa nay được ví như bình rượu quý của thế gian. Và mỗi nhà văn được ví như là những nghệ nhân tinh chế hũ rượu văn chương ấy, bằng những tinh hoa của nghệ thuật và tình cảm mãnh liệt của mình dành cho đời, cho người. Tác phẩm đã quyến rũ lòng người bằng cách đó”. Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi thực sự là một “bình rượu tâm hồn” quý giá, và là nơi gửi gắm biết bao cái tâm, cái tài độc đáo để làm nên một tác phẩm bất hủ trong nền văn học Việt Nam. Chính vì vậy, đọc đoạn trích “Việt tỉnh dậy lần thứ tư…xung phong”, ta nhận ra vẻ đẹp độc đáo của chủ đề và đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm.
Nguyễn Thi là nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại với ngòi bút đặc biệt gắn bó với nhân dân miền Nam. Ông viết về những con người hồn nhiên, yêu đời, bộc trực, căm thù giặc bằng một tình cảm thủy chung, giàu ân nghĩa và bằng biệt tài phân tích tâm lý nhân vật. Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” được viết năm 1966 giữa những tháng ngày ác liệt của chiến tranh chống Mỹ, sau in trong tập Truyện và kí (1978). Tác phẩm là một sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Thi về người dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến lịch sử của dân tộc.
Sử dụng ngôi kể thứ 3, điểm nhìn linh hoạt giữa người kể chuyện và nhân vật, văn bản kể về chàng trai tên Việt – một người lính rơi vào tình cảnh bị thương, tỉnh dậy thấy mình bị bỏ lại trên chiến trường khốc liệt, xung quanh là không gian lạnh lẽo, âm u và đáng sợ bởi những tiếng súng, tiếng đạn ầm ầm. Việt đã có quá trình bộc lộ nội tâm phong phú và nỗ lực vượt thoát khỏi nghịch cảnh éo le, cố gắng bò về phía tiếng súng nổ là dấu hiệu của đồng đội với một niềm tin son sắt, ý chí mãnh liệt, tinh thần lạc quan, kiên cường. Qua vài dòng tóm tắt truyện, ta hình dung được sâu sắc về chủ đề và những đặc sắc nghệ thuật của trích đoạn.
Trước hết, mỗi tác phẩm nghệ thuật phải thực sự là “tiếng sáo thổi lòng thời đại, thành giao liên dẫn dắt đưa đường”. Dường như ý thức rõ về điều này, Nguyễn Thi đã viết nên tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” là “tiếng sáo”, là “giao liên” dẫn ta tới ý nghĩa nhân văn của tinh thần người lính cách mạng. Văn bản làm nổi bật chủ đề sức mạnh tinh thần của người lính trong chiến tranh khắc nghiệt, sự lạc quan, niềm tin và ý thức đầy bản lĩnh cùng tâm hồn ngây thơ, trong trẻo, đẹp đẽ của họ. Hoàn cảnh tàn khốc của bom đạn chỉ làm nền cho người lính bộc lộ phẩm chất anh hùng. Đây là một chủ đề quen thuộc trong văn học Việt Nam từ cổ chí kim, đặc biệt là trong nền văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975. Có thể kể đến nhiều gương mặt tiêu biểu với nhiều tác phẩm đặc sắc như “Đồng Chí” (Chính Hữu), “Tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật), “Những ngôi sao xa xôi” (Nguyễn Minh Khuê), “Đêm nay bác không ngủ” (Minh Huệ)… Chủ đề câu chuyện đã được thể hiện một cách rõ ràng, xuyên suốt qua mạch truyện: Việt, một người lính trẻ tuổi bị đặt vào một tình huống éo le: bị thương và nằm bất tỉnh, cô đơn một mình trên chiến trường khốc liệt. Không gian chiến trường được miêu tả một cách âm u, lạnh lẽo: Đêm sâu thăm thẳm, bắt đầu từ tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên”, “Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt” làm tăng thêm phần kinh sợ cho anh chiến sĩ Việt. Rồi “Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai…”, “Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao” khuấy động cả bầu không khí tĩnh mịch. Những âm thanh ầm ĩ, dữ dội vang lên báo hiệu dấu vết của sự hủy diệt và chết chóc. Đối với kẻ đang nằm thoi thóp bất động trên đất vì bị thương như Việt, những tiếng bom đạn dữ dội lại càng kinh hoàng, ám ảnh, khủng khiếp. Thế nhưng, điều đặc biệt là người lính ấy không có vẻ gì run sợ, hoảng loạn. Anh rất mực kiên cường, bản lĩnh, ở anh ánh ngời lên vẻ đẹp của sự lãng mạn, tinh thần lạc quan, trong sáng. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, thay vì hoảng sợ, Việt lại chú tâm tới những chuyển động bé nhỏ xung quanh: tiếng dế gáy u u, giọt mưa rơi trên mặt, tiếng động nhỏ của ban đêm… Bên cạnh đó, tâm hồn Việt còn bay bổng, giàu trí tưởng tượng nhớ về những hình ảnh đầy ắp kỉ niệm: kỉ niệm về mẹ, về anh Tánh, về đồng đội thân thương. Rồi Việt lại hồn nhiên liên tưởng đến những con ma cụt đầu và sự hình dung ngây ngô, tinh nghịch về những tiếng súng to, súng nhỏ. Việt tinh ý phát hiện ra sự khác biệt giữa quân ta và quân địch chỉ qua hàng loạt tiếng súng. Dường như tiếng súng của đồng đội mình lại có nét đặc trưng. Tiếng súng đó không ghê sợ mà đầy rộn rã, thúc giục, nơi có tiếng súng là nơi có sự sống vọng về, nơi có tình người ấm áp làm động lực phấn đấu. Tâm hồn Việt lấp lánh niềm tin son sắt với cách mạng và lí tưởng xung phong của thanh niên thuở trước. Như vậy, thông qua chủ đề, ta nhận thức sâu sắc về hình ảnh những người lính thiếu niên anh hùng. Tuy còn nhỏ tuổi, tâm hồn còn trẻ trung nhưng ý chí chiến đấu vì tổ quốc và tinh thần vượt lên nghịch cảnh của họ thật đáng khâm phục. Hình tượng nhân vật Việt mang lại cho chúng ta bài học ý nghĩa về tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và bản lĩnh kiên cường dẫu gặp bao khó khăn, nghịch cảnh.
Bên cạnh đó, Leonit Leonop cho rằng: “Mỗi tác phẩm là một khám phá về nội dung và một phát minh về hình thức”. Thật vậy, bên cạnh một nội dung sâu sắc, hình thức nghệ thuật là một yếu tố quan trọng không thể thiếu làm nên giá trị tác phẩm. Đoạn trích “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là một tác phẩm trọn vẹn không chỉ bởi chủ đề tinh thần người lính sâu sắc mà còn bởi hình thức nghệ thuật độc đáo. Đặc sắc đầu tiên về mặt nghệ thuật là văn bản được tổ chức với một tình tiết đơn giản: sự kiện Việt bị thương, bị nằm lại trên chiến trường một cách đơn độc và cách anh vượt qua nỗi sợ của không gian tăm tối xung quanh. Toàn bộ thời gian của câu chuyện được gói gọn trong “một đêm nữa lại đến”. Không gian chỉ xoay quanh khu rừng nơi Việt bị bỏ lại, nằm bị thương, bất tỉnh và tỉnh dậy đến lần thứ 4. Đó là khoảng thời gian, không gian gợi lên sự hoang sơ, âm u và nỗi cô độc, sợ hãi của con người. Gắn với không thời gian đó, tác giả xây dựng hệ thống lời trần thuật và lời thoại hợp lí, linh hoạt. Câu chuyện chủ yếu được kể bằng lời của Việt, từ điểm nhìn bên trong của anh. Việt đang nằm yên và quan sát không gian tăm tối xung quanh cùng những chuyển biến trong nội tâm, trí tưởng tượng của mình. Hướng trần thuật của câu chuyện rất đơn giản, không phức tạp chồng chéo các sự kiện nhưng lại diễn tả một nội tâm vô cùng phong phú. Lời trần thuật chủ yếu là tiếng nói từ bên trong. Xây dựng hình tượng nhân vật Việt, tác giả đã chú trọng khắc họa diễn biến nội tâm sinh động của anh, qua đó cho người đọc khám phá được vẻ đẹp trong trẻo, hồn nhiên, thuần khiết của người lính trẻ cùng với tinh thần, ý chí lạc quan, kiên cường, bất khuất của anh hướng về đồng đội, hướng về lí tưởng và tương lai. Không chỉ thế, điểm đặc biệt ở đây là tình huống truyện độc đáo, gợi mở vẻ đẹp tâm hồn và ý thức của Việt. Nhân vật được đặt trong một tình huống éo le, ngặt nghèo là bị thương và bị bỏ lại giữa màn đêm tăm tối, giữa sự lạnh lẽo của không gian và sự rình rập của chết chóc, thế nhưng, thay vì hoảng sợ, tuyệt vọng, từ bỏ… thì Việt lại tìm thấy ánh sáng của niềm tin, của sự sống, của động lực vươn lên nghịch cảnh. Xây dựng tình huống truyện như thế, Nguyễn Thi đã thành công mở ra diễn biến câu chuyện, thúc đẩy cốt truyện phát triển, đồng thời, nêu bật vẻ đẹp bất khuất anh hùng của nhân vật Việt. Mặc dù hướng vào khắc họa nội tâm phong phú của Việt nhưng người kể chuyện của văn bản lại kể từ điểm nhìn của ngôi thứ ba, điều này tạo cảm giác khách quan, bao quát cho người đọc về câu chuyện. Điểm nhìn trần thuật có sự chuyển biến linh hoạt giữa điểm nhìn của tác giả với điểm nhìn của Việt, giữa quan sát bên ngoài với sự miêu tả bên trong. Cuối cùng, đoạn trích kết thúc có hậu với dư âm về lòng dũng cảm, sự bất khuất kiên cường cùng tâm hồn lạc quan, giàu sức sống của người lính quả cảm. Bên cạnh đó, kết thúc đoạn trích còn là một kết thúc mở, mở ra liên tưởng dồi dào của người đọc về hành trình tiếp theo của người lính.
Như vậy, nếu như “tương lai của một nhà văn được đánh giá qua văn học anh ta để lại” như lời của Albert Camus thì tôi nghĩ Nguyễn Thi có thể tự hào về những gì mà ông đã để lại cho đời. Trang viết của ông đã làm đúng công việc của một kẻ sĩ “nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ”, làm đúng công việc của một kẻ sĩ luôn “quan hoài thường trực cho số phận con người”. Bằng cách xây dựng hình thức tự sự đơn giản, lời trần thuật, lời độc thoại nội tâm nhân vật phong phú; hình ảnh, ngôn ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày; tình huống truyện vừa độc đáo, vừa ấn tượng;… Nguyễn Thi đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Việt – một người anh hùng kiên cường, lạc quan, trong trẻo, qua đó đoạn trích đã thể hiện sâu sắc chủ đề sức mạnh tinh thần của người lính trong chiến tranh khắc nghiệt. Thông qua hình tượng người lính kiên cường Việt, văn bản đã gửi gắm tới mỗi chúng ta bài học nhân sinh quý giá rằng mỗi chúng ta cần sống lạc quan, tích cực, nỗ lực kiên cường vượt qua mọi khó khăn, lấy tình yêu gia đình và đồng đội, đồng chí làm động lực sống. Hi vọng luôn ở phía trước, hi vọng còn thì tương lai còn!
Với những giá trị về chủ đề và đặc sắc nghệ thuật ở trên, đoạn trích xứng đáng trở thành tường thành tiêu biểu cho tài năng và phong cách nghệ thuật của tác giả Nguyễn Thi. “Thời gian hủy hoại các lâu đài nhưng làm giàu những vần thơ” (Jorge Luis Borges). Một khoảnh khắc, ta bất chợt nhận ra, rằng thời gian vô tình nhất cũng trở nên dịu dàng khi đứng trước những vần thơ, câu viết. Năm tháng chảy trôi không khiến tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” rơi vào quên lãng, mà rơi vào khoảng trống trong trái tim và khối óc của con người, để người ta mãi nhớ, mãi trân trọng một tác phẩm để đời như thế.
☕ Nếu thấy tài liệu hữu ích, bạn có thể ủng hộ mình 1 ly cà phê để duy trì server!
(Hoàn toàn tự nguyện — cảm ơn bạn!)

📚 Ghi chú bản quyền & lời cảm ơn
Tất cả tài liệu trên website được sưu tầm & tổng hợp từ nhiều nguồn công khai trên Internet nhằm hỗ trợ học tập và chia sẻ kiến thức.
Nếu bạn là tác giả và không muốn tài liệu xuất hiện ở đây, vui lòng liên hệ để mình gỡ ngay. Email: mrcao.aof@gmail.com